Nan giải sản xuất chè hàng hóa ở Quang Bình

08:05, 13/11/2013

HGĐT- Thiếu các yêu cầu cơ bản phục vụ cho sản xuất như máy móc, kỹ thuật, đường sá, điện... khiến con đường sản xuất chè hàng hóa ở huyện Quang Bình còn gặp nhiều khó khăn, nan giải.


Thiếu cơ sở sản xuất

Từ lâu, cây chè đã trở thành một trong những loại cây trồng chính đối với người dân huyện Quang Bình, để phát triển chè hàng hóa HĐND huyện Quang Bình khoá II đã phê chuẩn đề án phát triển trồng chè giai đoạn 2011 – 2015. Trong đó, xác định chè là một cây mũi nhọn để xóa đói, giảm nghèo; tập trung vào đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất và sản lượng, cải tạo diện tích chè già cỗi; nâng cao trình độ chuyển giao khoa học kỹ thuật cho người dân làm tăng tổng diện tích chè toàn huyện đến năm 2015 là 2.500 ha. Theo đó, đã hỗ trợ 70% tiền giống đầu tư trồng mới cho các xã vùng thấp thuộc quy hoạch vùng chè và 100% giá giống cho các xã vùng cao. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất, thâm canh vùng chè, xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng quy hoạch.

 


Đường đi vào vùng chè ở xã Xuân Minh (Quang Bình) lầy lội vào mùa mưa.


Đến nay, toàn huyện có 4 cơ sở chế biến chè khô, gồm: 3 HTX chế biến chè khô là HTX Nam Hải ở xã Tân Bắc, HTX Tân Mới ở xã Tân Trịnh, HTX Xuân Mai ở xã Xuân Minh và 1 công ty THHH Hiệp Thành ở xã Tiên Nguyên; chế biến từ 10 – 30 tấn chè/tháng trên tổng số diện tích cho thu hoạch là 1.878,7 ha, ước đạt sản lượng chè búp tươi là 8.300 tấn. Trong đó, HTX Tân Mới đã dừng sản xuất. Theo Trưởng phòng Công thương huyện Quang Bình, Lương Văn Thành: “các cơ sở sản xuất, chế biến chè phát triển theo hướng tiểu thủ công nghiệp; ở các xã Tân Nam, Tân Bắc, Tân Trịnh, Tiên Nguyên, Xuân Minh trồng chè gắn với chế biến. Tuy nhiên, hiện nay có 4 cơ sở sản xuất chè có thương hiệu thì chỉ có 2 cơ sở phát triển tốt, còn 2 HTX làm ăn kém hiệu quả, hoạt động không đúng mục đích. Ngoài ra, các hộ gia đình tự sản xuất, chế biến chè một cách nhỏ, lẻ chiếm đa số”. Trong các cơ sở sản xuất trên, chưa cơ sở nào có thương hiệu đủ mạnh để người tiêu dùng biết đến chè Quang Bình rộng rãi. Và với con số 4 cơ sở sản xuất, chế biến chè khô có đầu tư máy móc là quá ít so với số lượng chè thu hái được từ nhân dân. Không có cơ sở thu mua, người dân buộc phải bán chè cho các nơi khác.

 

Manh mún, nhỏ lẻ, chất lượng thấp

Mặc dù cây chè shan tuyết được trồng ở các xã vùng cao như: Tân Nam, Tiên Nguyên, Xuân Minh... có điều kiện khí hậu, đất đai và chất lượng khá giống với chè shan tuyết ở huyện Hoàng Su Phì, một huyện có thương hiệu chè có tiếng trên địa bàn tỉnh; thế nhưng, đường sá đi lại ở các xã này rất khó khăn, chủ yếu là đường đất nhỏ, hẹp, lầy lội vào mùa mưa nên người dân chỉ có thể bán chè vàng nguyên liệu ra ngoài. Tới thôn Nậm Ngoa, xã Tân Nam thăm nhà ông Xiềm Giao Châu, một hộ người Dao trồng chè lâu năm, có hơn 5.000 m2 chè cho thu hoạch 4 vụ/năm nhưng trong nhà ông Châu chỉ có một chảo lớn dùng để xao chè. Được biết, trước đây nhà ông cũng có máy chế biến chè mini nhưng đã từ lâu không dùng đến vì công chế biến mất nhiều thời gian trong khi làm chè vàng hoặc bán chè tươi thì đơn giản hơn, giá cả cũng khá. Ông Châu chia sẻ: “Vì đường đi lại khó khăn, chưa có điều kiện làm chè chuẩn nên nhà tôi chủ yếu bán chè tươi hoặc hái chè về chưa đi bán được thì làm chè vàng. Nhiều nhà khác trong thôn cũng làm vậy vì 1 tạ chè tươi làm được 25 kg chè khô, nếu làm chè vàng thì được 30kg.” Chè vàng ở đây là loại chè chất lượng thấp, được xao qua lửa rồi đem phơi nắng.

 

Để phục vụ cho chế biến chè, số lượng máy chế biến chè mini trong nhân dân từ lâu đã có rất nhiều nhưng vẫn chưa có sự liên kết giữa các hộ về chất lượng. Tại xã Xuân Minh, một xã vùng 3 của huyện, có tới 175 máy chế biến chè mini. Theo Chủ tịch xã Xuân Minh, Triệu Phụ Chìu: “khó khăn trong sản xuất, chế biến chè ở xã là đường đi lại vất vả, lá chè được hái xuống cần chế biến ngay mới đảm bảo chất lượng nên người dân phải tự chế biến tại nhà. Nhưng chỉ có 20% số hộ có máy chế biến mini tại nhà làm được chè khô đạt chất lượng, các hộ còn lại dù đã qua nhiều lớp tập huấn nhưng chưa làm được chè chuẩn.” Đặc biệt, năm nay do người dân vẫn còn trồng chè theo truyền thống, bị sâu hại nhiều làm xoăn lá chè, lại bị ảnh hưởng của mưa đá ở 2 thôn Xuân Thành, Phìn Chái làm thiệt hại lứa chè xuân không thu hoạch được nên 363,9 ha chè toàn xã tính đến nay đạt 897,35 tấn búp chè tươi, giảm 252,65 tấn so với năm ngoái.

 

Không chỉ đường khó đi cản trở sản xuất chè mà hệ thống cung cấp điện chưa hoàn chỉnh cũng gây trở ngại cho hoạt động chế biến chè. Tới thăm HTX Xuân Mai, thôn Minh Sơn, xã Xuân Minh là một trong những cơ sở sản xuất có hiệu quả, được thành lập từ năm 2003, chuyên sản xuất các mặt hàng chè vàng, chè đen, chè xanh sơ chế. Anh Vũ Hồng Thắng, Chủ nhiệm HTX bức xúc: “năm nay chè bị mất mùa vụ Xuân làm chúng tôi không đủ nguyên liệu sản xuất; đến vụ thu hái vào tháng 7, 8 thì lại bị mất điện hàng mấy tháng liền không thể sản xuất được.” Cũng theo anh Thắng, để làm một mẫu công bố chất lượng theo tiêu chuẩn Quốc gia gắn vào bao bì chè theo hạn 3 năm một lần khá tốn kém. Trước đây, làm xét nghiệm mẫu phải trả hơn 1 triệu đồng/mẫu thì bây giờ làm xét nghiệm đến 28 chỉ tiêu tốn đến hơn 10 triệu đồng. Với điều kiện địa phương còn khó khăn, sản xuất chè hàng hoá đang manh nha như hiện nay thì Nhà nước nên tạo điều kiện cho người dân hoạt động kinh doanh.

 

Vì thiếu các điều kiện sản xuất chè thành phẩm đạt chất lượng nên huyện Quang Bình vẫn bán chè nguyên liệu là chính. Điều này khiến giá trị của cây chè cũng như công sức của người nông dân bị thất thoát đi rất lớn. Ví dụ như: HTX Xuân Mai sơ chế chè xanh xuất khẩu trên 100 tấn/năm đi Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc với mức giá bán là 40.000 đồng/kg; trong khi sản xuất chè nội tiêu chất lượng cao chỉ có 3 – 4 tấn/năm với giá bán trung bình là 100.000 – 300.000 đồng/kg. Vậy là nếu làm được chè thành phẩm chất lượng cao bán ra thị trường thì giá trị sẽ nâng lên gấp 3 – 4 lần. Tương tự như vậy, số lượng chè vàng người dân bán ra thường được bán sang Trung Quốc với con số rất lớn.

 

Trồng chè vẫn là một định hướng đúng của chính quyền địa phương, người dân cũng khẳng định cây chè phù hợp với đất đai nơi đây. Ngoài trồng ngô, lúa để đảm bảo lương thực thì cây chè là nguồn thu chủ yếu của người dân ở các xã trong vùng quy hoạch. Trung bình, mỗi hộ trồng chè đều thu được từ 10 – 40 triệu đồng/năm, chứng tỏ vị thế của cây chè. Tuy nhiên, nếu được đầu tư nhiều hơn nữa từ máy móc, công nghệ, đường sá... thì giá trị cây chè sẽ được nâng cao hơn.


LÊ HẢI

Ý kiến bạn đọc


Cùng chuyên mục

Người dân khó tiếp cận chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế
HGĐT- Năm 2012, HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết 47 về một số chính sách khuyến khích phát triển KT-XH. Theo đó, có 6 lĩnh vực được ngân sách Nhà nước hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng gồm hoạt động sản xuất, kinh doanh trong khu kinh tế cửa khẩu, khu, cụm công nghiệp; chế biến sản phẩm từ nông nghiệp; thương mại - dịch vụ; sản xuất nông nghiệp; đào tạo nghề, lao động việc làm;
31/10/2013
Đồng Văn trồng thử nghiệm khoai tây sớm trên đất nương
HGĐT- Nhằm chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đặc biệt là cây trồng vụ 2 phù hợp với khí hậu, thời tiết, mang lại giá trị kinh tế cao, từ vụ Đông – xuân 2011-2012, thực hiện sự chỉ đạo của huyện, Trạm Khuyến nông Đồng Văn trồng thử nghiệm mô hình khoai tây Solaza trên đất ruộng tại thị trấn Đồng Văn; vụ Đông năm nay thử nghiệm mô hình khoai tây sớm trên đất nương tại xã Sủng Là,
31/10/2013
Tranh chấp vùng nguyên liệu lâm sản “bài toán” đã có lời giải
HGĐT- Tỉnh ta được đánh giá là vùng cung cấp nguyên liệu dồi dào, đáp ứng tốt nhu cầu của các nhà máy, cơ sở chế biến lâm sản với sản lượng hàng trăm nghìn m3 mỗi năm. Tuy nhiên, do chưa làm tốt công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch nên đã xảy ra tình trạng tranh mua, tranh bán, chồng lấn vùng nguyên liệu.
30/10/2013
Nhiều giải pháp đồng bộ xóa đói, giảm nghèo ở Xín Mần
HGĐT- Tranh thủ sự ủng hộ của các cấp, các ngành; huy động mọi nguồn lực, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để thúc đẩy sản xuất, xóa đói, giảm nghèo nhanh, bền vững là điểm đáng ghi nhận ở Xín Mần trong 9 tháng qua.
30/10/2013