Dấu ấn phát triển kinh tế của Việt Nam trong nhiệm kỳ 2016-2020

2020 là năm khó khăn nhất nhưng cũng là năm thành công nhất trong nhiệm kỳ qua, khi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân chung sức, đồng lòng, khắc phục mọi khó khăn, đạt được những thành tựu quan trọng.


Bốc xếp hàng hóa tại cảng Tân Cảng-Thốt Nốt. (Ảnh: TTXVN)

Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay, chưa có khi nào đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như nhiệm kỳ 2016-2020 vừa qua. Nhưng "lửa thử vàng, gian nan thử sức," dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, quản lý, điều hành của Chính phủ, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng XII, Việt Nam đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận.

Đặc biệt, năm 2020 là năm khó khăn nhất nhưng cũng là năm thành công nhất trong nhiệm kỳ qua, khi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân chung sức, đồng lòng, khắc phục mọi khó khăn, thử thách, đạt được những thành tựu quan trọng, được bạn bè quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Những quyết sách quan trọng

Trong nhiệm kỳ 2016-2020, dấu ấn lãnh đạo kinh tế của Đảng được thể hiện rõ nét thông qua các cương lĩnh, chiến lược và văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khóa XII. Cùng với đó, một loạt quyết sách quan trọng khác cũng đã được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị ban hành nhằm phát triển đất nước trong đó có lĩnh vực kinh tế.

Quyết tâm phát triển kinh tế cũng được thể hiện qua một loạt các văn bản được Đảng ta ban hành. Ngay trong Nghị quyết của Đại hội XII đã đặt mục tiêu tổng quát là phải đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nâng cao đời sống, vật chất và tinh thần của nhân dân…

Tiếp đến, Trung ương đã ban hành một loạt các Nghị quyết quan trọng, như: Nghị quyết số 10 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế; Nghị quyết số 11 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết số 23 về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045; Nghị quyết số 52 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045...

Những nghị quyết này thể hiện sự đột phá về tư duy và tầm nhìn, góp phần không nhỏ vào tháo gỡ khó khăn, nút thắt, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia và huy động nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Trong các ưu tiên của Chính phủ để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đặt lên là hàng đầu.

Chính phủ xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm để thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, hoàn thiện các loại thị trường. Qua đó, huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực; hình thành hệ thống thể chế có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và thế giới và tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh.

Trong 5 năm qua, nhiều "điểm nghẽn" về thể chế đã được Chính phủ phát hiện, xử lý. Nhiều khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đầu tư, kinh doanh được tháo gỡ. Cải cách thủ tục hành chính được đẩy mạnh. Năm 2016, xóa bỏ hàng nghìn giấy phép con. Năm 2018, cắt giảm, đơn giản hóa hơn 50% điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính kiểm tra chuyên ngành. Nhờ đó, Việt Nam tăng 20 bậc về môi trường kinh doanh, tăng 10 bậc về năng lực cạnh tranh theo các bảng xếp hạng toàn cầu. Khoảng cách điểm số về môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của nước ta so với nhóm các nước dẫn dầu ASEAN đang thu hẹp lại.

Đặc biệt, trong nhiệm kỳ này, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã nhiều lần tham dự Hội nghị Chính phủ với các địa phương, nhằm đưa ra những định hướng, nhiệm vụ và giải pháp quan trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.

Nhiều dấu ấn nổi bật

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng với nhiều dấu ấn nổi bật. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2016-2019 đạt khá cao, bình quân 6,8%/năm. Năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh, thiên tai, bão lũ, nhưng tăng trưởng vẫn đạt 2,9%. Việt Nam là một trong những quốc gia tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới.

Trong 5 năm qua, cơ cấu nền kinh tế có chuyển đổi mạnh mẽ. Kinh tế tư nhân dần trở thành một động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đóng góp đến 40% tổng GDP. Tổng số doanh nghiệp tăng gấp 1,5 lần. Đây là sự phát triển đúng hướng, tạo đà cho nền kinh tế đi vào quỹ đạo tăng trưởng phát triển

Năng suất lao động giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8% vượt mục tiêu đề ra; chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 18,6% năm 2011 xuống dưới 4% giai đoạn 2016-2020; xuất nhập khẩu tăng 1,7 lần, xuất siêu 5 năm liên tục; thương mại điện tử tăng 25%, trở thành một kênh phân phối quan trọng của nền kinh tế; du lịch tăng trưởng bình quân gần 30%/năm, đạt 18 triệu lượt khách quốc tế vào năm 2019, tăng hơn 10 triệu lượt so với năm 2015.

Việc thực hiện chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số vào nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đây được xem là động lực trong thời cơ mới, để giúp nền kinh tế tăng trưởng, năng suất lao động cao.

Phân tích kết quả phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020, ông Nguyễn Đức Kiên, Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, dù vẫn còn có những mặt tồn tại, nhưng công tâm đánh giá, 5 năm qua là 5 năm thành công về phát triển kinh tế của Việt Nam.

Bốn năm đầu (2016-2019), Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao, các chỉ tiêu cân đối lớn được cải thiện rõ rệt, từ bội chi ngân sách, nợ Chính phủ, nợ công đến dự trữ ngoại hối, lạm phát, tốc độ tăng trưởng.

Năm 2020 là năm cuối cùng của nhiệm kỳ 5 năm, do sự xuất hiện của dịch COVID-19, không chỉ riêng Việt Nam mà cả thế giới bị ảnh hưởng. Nhưng Việt Nam vẫn là một trong hai quốc gia của châu Á đạt tăng trưởng dương, đời sống người dân cơ bản vẫn được bảo đảm, không rơi vào khủng hoảng; đó là một sự thành công, làm tiền đề tốt để bước vào kế hoạch 2021-2025.

Một dấu ấn không thể không nhắc đến trong nhiệm kỳ qua đó là thành tựu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã ký 15 Hiệp định FTA (gần đây nhất là: Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Anh (UKVFTA)); có 16 đối tác chiến lược, 11 đối tác chiến lược toàn diện; tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực; có 71 nước đã công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường…

Hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam phát triển mạnh, gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu. Từ một nước nhập siêu, Việt Nam đã chuyển sang cân bằng xuất nhập khẩu, rồi xuất siêu và đã xuất siêu trong 5 năm liên tiếp từ 2016-2020.


Công ty Cổ phần VinaTex Hồng Lĩnh tại cụm công nghiệp Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh) sản xuất và tiêu thụ trên 3.500 tấn sản phẩm sợi tại thị trường trong nước và xuất khẩu. (Ảnh: TTXVN)

Các hiệp định thương mại đi vào thực thi đã giống như các “tuyến cao tốc” rộng mở, nối gần hơn doanh nghiệp Việt với thế giới. Việc có quan hệ FTA với các nền kinh tế lớn và phát triển tại các khu vực địa lý khác nhau đã giúp Việt Nam đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại và có được cơ cấu thị trường hợp lý hơn, không quá phụ thuộc vào một khu vực thị trường nào. Đây cũng là minh chứng cho các nhà đầu tư nước ngoài nhìn thấy sự ổn định cũng như tiềm năng phát triển của nền kinh tế Việt Nam.

Những thành tích đạt được đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Theo Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Việt Nam đã tạo ra một “câu chuyện huyền thoại” trong công cuộc giảm nghèo với chỉ số HDI (chỉ số phát triển con người) năm 2019 là 0,63, xếp thứ 118 trong tổng số 189 nước, tức nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng chỉ số Phát triển nguồn nhân lực (HDI) cao nhất trên thế giới.

Việt Nam được xếp thứ 8 trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư năm 2019, tăng 15 bậc so với năm 2018; năng lực cạnh tranh của Việt Nam được Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp thứ 67/141 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 10 bậc so với năm 2018. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đánh giá năm 2020, Việt Nam có thể trở thành nền kinh tế đứng thứ 4 ASEAN...

Nhìn lại những thành tựu quan trọng về phát triển và hội nhập kinh tế trong nhiệm kỳ qua, mỗi người dân đều có quyền tự hào vì đó chính là kết quả của ý Đảng, lòng dân - kết quả của sự lãnh đạo tài tình của Đảng và sự tin tưởng, nỗ lực thực hiện của toàn dân.

Những thành tựu ấy càng có ý nghĩa hơn khi Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đang đến gần, với những định hướng mới, tiếp tục đưa Việt Nam phát triển nhanh và bền vững./.

TTXVN/Vietnam+

Tin cùng chuyên mục