Tộc người Xuồng ở Sơn Vĩ
Giữa tầng tầng lớp lớp núi đá tai mèo dựng đứng của xã Sơn Vĩ, thôn Lũng Làn lặng lẽ như một đốm sáng văn hóa, nơi tộc người Xuồng thuộc một nhánh của người Nùng vẫn kiên trì, bền bỉ gìn giữ trang phục, tiếng nói, chữ viết, nghề thêu và kho tàng dân ca sli, lượn, hát đối. Trong nhịp sống hiện đại, Lũng Làn như chiếc nôi gìn giữ ký ức ngàn đời, để bản sắc không bị gió núi phôi pha.
![]() |
| Phụ nữ Xuồng giữ nghề thêu trang phục truyền thống. |
Những dấu chỉ đầu tiên của một tộc người đặc biệt
Con đường dẫn vào thôn Lũng Làn ngoằn ngoèo như sợi chỉ bạc vắt qua lưng núi. Mùa này, sương mù đặc quánh, chỉ thấy thấp thoáng vài mái nhà đơn sơ dưới chân núi. Lũng Làn có 121 hộ, nhưng lại là nơi sinh tụ của tộc người Xuồng với 41 hộ, một cộng đồng nhỏ bé với những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo.
Đi sâu vào bản, điều đầu tiên dễ nhận ra là tiếng nói. Người Xuồng ở Lũng Làn vẫn sử dụng tiếng Xuồng, gần gũi với tiếng Nùng nhưng có hệ thống thanh điệu và cách phát âm riêng biệt, đặc biệt là âm cuối bật hơi và ngữ điệu ngân dài. Đây là điểm khiến tiếng Xuồng rất giàu nhạc tính, phù hợp với hát sli, lượn.
Ngôn ngữ của người Xuồng không chỉ dừng ở tiếng nói. Trong nhiều gia đình, vẫn còn lưu giữ chữ Nôm Xuồng trên giấy bản, ghi lại gia phả, lời khấn, các nghi lễ truyền thống. Những nét chữ uốn lượn, cấu trúc tượng hình đầy tính thẩm mỹ cho thấy tộc người nhỏ bé này từng có lịch sử chữ viết phong phú, dù không phổ biến như chữ Nôm Tày - Nùng.
Khi mặt trời lên khỏi đỉnh núi, phụ nữ Xuồng bắt đầu ra sân phơi sợi, giũ vải. Dưới ánh nắng, màu chàm trên trang phục của họ ánh lên một sắc xanh trầm, được nhuộm từ lá cây bản địa. Phụ nữ Xuồng mặc áo chàm dài, cổ tròn, thắt eo nhẹ, tay áo và nẹp trước được thêu hoa văn màu đỏ - trắng - xanh. Điểm đặc biệt là những đường thêu hình sóng nước, mắt rồng và hoa bốn cánh được làm hoàn toàn thủ công, mỗi gia đình mỗi kiểu, không ai trùng ai.
Đàn ông Xuồng giản dị hơn với áo chàm đen, cổ đứng, cúc bạc hình đồng xu - một biểu tượng của sự bình an. Tiếng nói - chữ viết: kho báu được truyền qua từng ngọn khói bếp.
![]() |
| Các chiến sỹ Đồn Biên phòng Sơn Vĩ vận động bà con tộc người Xuồng gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống. |
Nghề thêu - bàn tay giữ lại sắc màu thời gian
Nếu như tiếng nói là hơi thở của văn hóa Xuồng, thì nghề thêu chính là trái tim của đời sống phụ nữ nơi đây. Con gái Xuồng từ 7-8 tuổi đã phải biết xâu kim, đi mũi cơ bản. Lớn hơn một chút, họ học cách phối màu, tạo hình hoa văn. Sợi thêu được nhuộm từ lá chàm, vỏ cây, củ rừng, cho màu bền và an toàn.
Bà Hoàng Thị Tương, Bí thư Chi bộ thôn Lũng Làn chia sẻ: “Những bộ trang phục phục vụ lễ cưới, lễ hội, Tết đều do phụ nữ trong nhà tự làm. Bởi vậy, bộ đồ cưới của cô gái Xuồng không chỉ đẹp mà còn là tấm lòng cha mẹ gửi gắm. Mỗi đường thêu trên trang phục đều là một câu chuyện gói ghém ước vọng về mùa màng tốt tươi, gia đình bình an, con cái khỏe mạnh”.
Gần đây, xã Sơn Vĩ phối hợp Hội Phụ nữ mở lớp truyền nghề thêu cho thanh niên, vừa để giữ nghề vừa tạo sinh kế. Các sản phẩm như túi thổ cẩm, địu trẻ, khăn đội đầu bắt đầu được du khách tìm mua. Nghề thêu, từ chỗ tưởng chừng bị lấn át bởi hàng công nghiệp, nay lại trở thành cơ hội thoát nghèo cho phụ nữ Xuồng.
Tiếng hát làm mềm đá núi
Đêm xuống, sương từ đỉnh núi tràn xuống bản, phủ trắng những mái nhà. Nhưng trong từng nếp nhà vẫn ngân lên tiếng hát dân ca Xuồng: sli, lượn và hát đối. Chị Hoàng Thị Mân là một trong ít người phụ nữ Xuồng ở đây biết hát bày tỏ: Để hát được hay, luyến láy đúng nhịp điệu là rất khó. Hát sli ngân dài, da diết, thường để giãi bày nỗi lòng, nỗi nhớ. Hát lượn nhẹ nhàng, khi thì kể chuyện lao động, khi thì tỏ tình. Hát đối là “cuộc chơi” của trí tuệ và nhanh nhạy ngôn từ; trai gái đối đáp từng câu, ai bí lời sẽ thua.
![]() |
| Tranh thủ lúc rảnh rỗi, phụ nữ Xuồng luyện tập các làn điệu dân ca truyền thống. |
Tiếng hát sli lượn vang trên triền núi, hòa với tiếng gió rừng như một bản giao hưởng của đại ngàn. Dịp lễ hội, đoàn trai gái Xuồng mặc trang phục truyền thống, vừa đi vừa hát, tạo nên bức tranh văn hóa sống động đến nao lòng.
Đại úy Vừ Mí Và, Đội trưởng Đội vận động quần chúng, Đồn Biên phòng Sơn Vĩ, chia sẻ: “Người Xuồng giữ văn hóa bằng cả trái tim. Mỗi lần nghe họ hát sli, tôi thấy như nghe tiếng núi thở, tiếng đất trời ngân. Bộ đội ở đây ai cũng trân trọng điều đó”.
Trong bối cảnh du lịch vùng cao phát triển mạnh, Lũng Làn đứng trước nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Sự du nhập của văn hóa hiện đại khiến một số thanh niên dễ bị cuốn theo. Song lãnh đạo thôn và chính quyền xã Sơn Vĩ đã chọn con đường bảo tồn chủ động trên cơ sở từng bước khôi phục các đội văn nghệ, câu lạc bộ sli, lượn, hát đối. Đồng thời vận động người dân mặc trang phục Xuồng trong ngày lễ, Tết; gìn giữ tiếng nói, chữ viết trong từng nếp nhà. Nhờ sự đồng lòng ấy, tộc người Xuồng chỉ với vài chục hộ dân vẫn gìn giữ được hồn cốt văn hóa giữa những thay đổi của cuộc sống.
Rời Lũng Làn, tôi mang theo những âm thanh trong trẻo của tiếng hát đối, của những lời thủ thỉ mộc mạc về nguồn cội. Ở nơi thăm thẳm này, người Xuồng không chỉ sống trên vùng đá, họ còn làm cho đá nở hoa. Văn hóa vì thế mà được truyền từ đời này sang đời khác, như mạch nguồn không bao giờ cạn. Nhờ vậy, tộc người Xuồng dù chỉ vài chục hộ nhưng vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa bền bỉ qua nhiều thế hệ, đóng góp vào bức tranh đa dạng của văn hóa dân tộc thiểu số Tuyên Quang.
Hoàng Anh













Ý kiến bạn đọc