Báo Tuyên Quang điện tử
.

Kỳ 2: Khai dân trí vững nền dân chủ ở cơ sở

00:46, 09/11/2025
 

"Khai dân trí” là mệnh lệnh xuyên suốt 80 năm để thực thi dân quyền. Trong bối cảnh mới, khi rào cản ngôn ngữ, pháp luật, công nghệ vẫn khiến nghị quyết “tắc ở cổng bản” thì “khai dân trí” không chỉ là nhiệm vụ của giáo dục, mà là nền tảng để dân quyền đi vào đời sống. Tuyên Quang – từ cái nôi Quốc dân Đại hội – đang làm mới tinh thần ấy: Biến đại biểu dân cử thành “người gieo tri thức”, mang pháp luật, công nghệ và ý thức công dân đến từng bản làng. Khi người dân hiểu luật, biết quyền và dám nói tiếng nói của mình, dân chủ không còn là khẩu hiệu, mà thành sức mạnh trong mỗi cộng đồng.

 

“Thôn mình nghèo, nay HĐND xã muốn giúp mình làm du lịch... mình phải giữ nhà sạch, bản đẹp... rồi bản mình sẽ thoát nghèo”. Chị Vàng Thị Chở, Bí thư Chi bộ thôn Lùng Hẩu, xã Lùng Tám, kiêm đại biểu HĐND xã, đã “Mông hóa” nghị quyết phát triển du lịch bằng những lời giản dị, thấm đẫm thực tế. Với 100% đồng bào Mông và hơn 30% cử tri không thạo tiếng phổ thông, một nghị quyết dù hay đến đâu cũng dễ “nằm trên giấy” nếu không có những người “phiên dịch” như chị.

 

Từ khi chị Chở mang ngôn ngữ nghị trường về thành lời nói thôn bản, mỗi buổi họp dân không còn là nơi “nghe cho biết”, mà trở thành diễn đàn dân chủ thực sự. Nghị quyết được “chuyển hóa” thành hành động: Nhà trình tường được sửa sang, đường bản mở rộng, ngõ sạch, hoa nở trước hiên. Làng du lịch cộng đồng Lùng Hẩu đang dần hình thành - một minh chứng sống động cho sức mạnh của “dân hiểu - dân làm".

Thông tin của Đảng, Nhà nước đến với bản làng thông qua những người phiên dịch đặc biệt.
Thông tin của Đảng, Nhà nước đến với bản làng thông qua những người phiên dịch đặc biệt.

Mô hình “người phiên dịch chính sách” đang chứng minh hiệu quả vượt trội trên khắp vùng cao Tuyên Quang, đặc biệt là ở những nơi "sóng" tiếng phổ thông chưa vươn tới. Cứ thế, từ bản Mông đến bản Lô Lô, người Giáy, người Nùng... thông qua người phiên dịch đặc biệt, những thông tin về chính sách, pháp luật, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội… đến khắp nẻo đường vùng cao. Đây chính là sự thay đổi cốt lõi: biến người dân từ cử tri thụ động thành những cử tri chủ động, có tri thức. Họ không chỉ "đi bầu" mà còn thực sự "lựa chọn" người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của mình tại HĐND.

 

Không khí dân chủ còn lan tỏa sôi động trong nghị trường thông qua người phiên dịch đặc biệt. Một chiều đầu đông, tại xã Thàng Tín, bà con người Nùng, Mông, Dao đã có mặt từ sớm tại buổi tiếp xúc cử tri. Ban đầu, không khí quen thuộc: Bà con ngồi trật tự, nghe báo cáo về định hướng phát triển kinh tế – xã hội, kết quả Đại hội Đảng bộ tỉnh, chính sách hỗ trợ vùng dân tộc thiểu số.

Nhưng khi Chủ tịch HĐND xã hỏi: “Bà con có ý kiến hay kiến nghị gì không?”, bà Lù Thị Sến, 58 tuổi, người Mông, phát biểu bằng tiếng Dao. Bí thư chi bộ Lù Văn Đức phiên dịch chậm rãi từng câu: “Khi nào đường bê tông vào bản sẽ làm tiếp? Mùa mưa trơn trượt, trẻ con đi học rất vất vả”. Bà Sến tiếp: “Dân mong Nhà nước hỗ trợ dây điện kéo từ công tơ tổng về nhà.

Có công tơ mà không có dây thì điện vẫn chưa sáng được”. Cứ thế, thông qua người phiên dịch là Bí thư chi bộ, các vấn đề cử tri nêu đều được giải đáp thỏa đáng; quyền dân chủ được thực hành, người dân trở thành chủ thể tích cực, biết đề xuất, giám sát và phản biện.

 
 
Người uy tín tuyên truyền về bầu cử tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Người uy tín tuyên truyền về bầu cử tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Nếu “người phiên dịch chính sách” giúp nghị quyết thấm vào lòng dân, thì người có uy tín chính là cầu nối sống động giữa cử tri và đại biểu, đảm bảo dân chủ cơ sở vận hành thực chất.

Một minh chứng điển hình là ông Nguyễn Minh Thông, thôn Bảo An, xã Quản Bạ, Nghệ nhân Ưu tú, thầy cúng và người có uy tín tiêu biểu trong cộng đồng. Xã Quản Bạ tập trung đông đồng bào Tày, Dao, Mông, nơi nhiều nghi lễ truyền thống như cúng giải hạn, tang ma trước đây thường rườm rà, tốn kém. Dù các đại biểu HĐND xã đã vận động xóa bỏ hủ tục, nhiều người dân chưa nắm rõ nội dung hoặc khó từ bỏ phong tục ăn sâu vào đời sống.

 

Tại thôn Sủng Lủ, xã Sủng Máng, dòng họ Sùng nhiều năm qua trở thành điển hình trong xóa bỏ hủ tục. Qua bảy đời quây quần với 63 hộ và hơn 320 nhân khẩu, dòng họ giữ vững tinh thần đoàn kết, thực hiện tốt chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đi đầu trong phát triển kinh tế. Dòng họ có 17 đảng viên, nhiều người giữ vị trí quan trọng tại cơ sở, trở thành chỗ dựa tinh thần cho cộng đồng.

Trưởng dòng họ Sùng Chứ Mua chia sẻ: “Trước đây, nhiều người chưa biết tiếng phổ thông, hủ tục ăn sâu khó thay đổi. Khi đại biểu HĐND tỉnh và xã về tiếp xúc cử tri, tuyên truyền nghị quyết, tôi tiên phong thực hiện, giải thích cho bà con hiểu. Nhờ đó, tang lễ rút xuống dưới 48 giờ, bỏ việc mổ trâu bò rình rang, phong tục mê tín, đốt vàng mã cũng chấm dứt. Tảo hôn và hôn nhân cận huyết, vốn là vấn đề nhức nhối, không còn tái diễn. Trẻ em được học THCS, THPT, có em vào đại học; nhà cửa khang trang hơn; người dân chuyển sang trồng dược liệu, cây ăn quả, chăn nuôi bền vững.”

Những người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số tuyên truyền, vận động bà con phát triển kinh tế.
Những người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số tuyên truyền, vận động bà con phát triển kinh tế.

Câu chuyện tại thôn Xà Phìn, xã Thanh Thủy cũng là minh chứng sống động về vai trò của người có uy tín. Tại cuộc tiếp xúc cử tri của HĐND xã, khi phần thảo luận trầm lắng, ông Đặng Văn Háu, nghệ nhân, người có uy tín đã đề xuất xã có chính sách phát triển kinh tế dựa trên hơn 30ha chè Shan tuyết cổ thụ và phát triển du lịch dựa vào thửa ruộng bậc thang đẹp của thôn. Kiến nghị của ông được HĐND xã ghi nhận, đưa vào nghị quyết phát triển kinh tế – xã hội, UBND xã cụ thể hóa bằng các kế hoạch phát triển chè Shan tuyết và du lịch.

Trên cơ sở đó, ông Háu vận động 7 hộ trong thôn thành lập Hợp tác xã Trà Pèng, chuyên thu mua, chế biến và xây dựng thương hiệu Chè Shan tuyết Xà Phìn. HTX hiện có 3 sản phẩm đạt chứng nhận OCOP 3 sao, bình quân thu nhập của thành viên đạt 150 triệu đồng/năm.

Cùng với phát triển chè, 15 hộ dân tham gia homestay và du lịch cộng đồng, mỗi năm đón khoảng 5.000 khách tham quan, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống và giữ gìn văn hóa địa phương. Hiện thôn chỉ còn 7 hộ nghèo, cận nghèo, trở thành điểm đến nổi bật thu hút du khách trong và ngoài nước.

Trong 1 buổi tiếp xúc cử tri khác, ông Háu đã kiên trì kiến nghị chính quyền xem xét sớm đóng điện cho người dân vì tram biến áp đã được xây dựng, cột điện đã về thôn nhưng điện vẫn… không về. Kiến nghị của ông được các đại biểu HĐND ghi nhận, thúc đẩy giải quyết. Đến tháng 1/2025, thôn Xà Phìn đã được đóng điện, bà con nhân dân khấn khởi sau bao năm chờ điện lưới quốc gia.

 

Trên toàn tỉnh, Tuyên Quang hiện có 3.435 người có uy tín, 2 Nghệ nhân Nhân dân, 33 Nghệ nhân Ưu tú, 35 nghệ nhân dân gian cùng nhiều già làng, trưởng bản, trưởng các dòng họ. Nhờ uy tín và trách nhiệm, những người này tạo sự đồng thuận, tăng niềm tin của cử tri với Quốc hội và HĐND các cấp, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa và xây dựng đời sống cộng đồng bền vững.

 
 

 

Lời dặn của Bác Hồ năm 1961 tại Hà Giang về học “nội ngữ” được các đại biểu HĐND Tuyên Quang hôm nay thực thi nghiêm túc.

Một buổi tuyên truyền các văn kiện của Đảng và bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp tại thôn Nà Hảo, xã Yên Minh
Một buổi tuyên truyền các văn kiện của Đảng và bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp tại thôn Nà Hảo, xã Yên Minh

Hàng năm, các lớp học tiếng Mông do Sở Giáo dục và Đào tạo, Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại Hà Giang, Công an tỉnh, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh mở ra cho cán bộ, đảng viên, trong đó nhiều học viên là đại biểu HĐND xã. Chị Hoàng Thị Sen, một đại biểu vừa hoàn thành khóa học, nhấn mạnh: “Trước đây, tiếp xúc cử tri vẫn phải nhờ phiên dịch; bà con quý nhưng khoảng cách vẫn còn. Từ ngày tôi tự giải thích được nghị quyết HĐND, bà con hiểu, tin và xem mình như người nhà. Chính sách nhờ đó mềm mại, dễ đi vào lòng dân hơn.”

 

Tại xã Hoàng Su Phì, câu hỏi đầu tiên trong các cuộc tiếp xúc cử tri không phải là người dân sẽ chất vấn điều gì, mà là họ có thể nói lên ý kiến của mình hay không. Bà Giàng Thị Máy, cử tri xã Sà Phìn cho biết, "Trước đây, mình không biết chữ, lại ngại nói tiếng phổ thông, nên đi họp TXCT chủ yếu là ngồi nghe.

Giờ đại biểu về tận thôn, còn nói được tiếng Mông, khuyến khích bà con nói. Mình thấy tin tưởng nên nói thẳng, năm ngoái mình hỏi luôn chuyện tranh chấp đất đai của gia đình, được đại biểu trả lời luôn, rất thoả đáng”.

 

Chính sự "khớp lệnh" ngôn ngữ này đã bảo đảm mọi ý kiến của cử tri được chuyển tải trọn vẹn. Từ chỗ chỉ ngồi nghe, nay nhiều cử tri mạnh dạn phát biểu, chất vấn thẳng thắn những vấn đề thiết thực. Các cuộc tiếp xúc không còn là hình thức báo cáo, mà là cầu nối dân chủ thực sự, giúp nghị quyết không nằm trên giấy mà đi thẳng vào cuộc sống, thấm vào từng nếp nhà, thôn bản.

Hành trình học tiếng dân tộc không chỉ là công cụ truyền đạt nghị quyết, mà còn là cầu nối giữa chính quyền và cử tri, nâng dân trí, củng cố dân chủ cơ sở.

 

Câu chuyện về xóa mù chữ nơi vùng biên Tuyên Quang là những thước phim sống động diễn ra hàng đêm. Ở đó, những học trò "U50, U60” từng quen với nương rẫy đang học cách đọc, cách viết để hiểu chính sách, hiểu quyền, hiểu trách nhiệm của mình. Một khởi đầu giản dị nhưng mang ý nghĩa của một cuộc đổi thay căn bản.

Một lớp học xóa mù chữ tại thôn Cóc Mưi Hạ, xã Thàng Tín
Một lớp học xóa mù chữ tại thôn Cóc Mưi Hạ, xã Thàng Tín.

Tại xã Thàng Tín, nơi 99% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, “khai dân trí” là một cuộc cách mạng thầm lặng. Trung tá Hàn Seo Chúng, Đồn Biên phòng Thàng Tín chia sẻ: “Ban đầu, vận động bà con đi học rất khó. Nhiều người lớn tuổi, sợ mất thời gian, sợ bị chê cười. Nhưng từ khi có Nghị quyết của HĐND tỉnh (Hà Giang cũ), bà con đã chủ động đến lớp.” Nghị quyết hỗ trợ 1,5 triệu đồng cho mỗi học viên hoàn thành chương trình (giai đoạn 2021-2025) đã giải quyết bài toán “cơm áo” trước mắt, mở đường cho việc “nuôi chữ” lâu dài. Nhờ đó, phong trào xóa mù chữ trở thành hiện thực, đồng thời là nền tảng cho thực hành quyền dân chủ.

Giờ đây, hội trường thôn Cóc Mưi Hạ sáng đèn từ thứ hai đến thứ sáu. Bà Lù Già Thì, 58 tuổi, chia sẻ: “Trước đây tôi không biết chữ, ký giấy tờ đều phải lăn tay; thông báo nào cũng phải nhờ người đọc. Từ ngày đi học, tôi biết đọc, biết viết, hiểu các chủ trương, chính sách”. Một cử tri biết đọc là một cử tri có năng lực giám sát; một người hiểu văn bản chính sách không còn mơ hồ về quyền lợi và nghĩa vụ của mình.

Người đến học chữ đều là những nông dân U ngoài 50.
Người đến học chữ đều là những nông dân U ngoài 50.

Câu chuyện của anh Thào Seo Cháng, thôn Ngài Trồ, xã Thàng Tín, cho thấy tri thức còn tạo chuyển biến kinh tế. Từng mù chữ, không giao tiếp được bằng tiếng phổ thông, anh chỉ ngồi nghe họp thôn mà không dám phát biểu. Sau khi học xóa mù chữ và tiếp tục lớp chống tái mù chữ, anh mạnh dạn thay đổi sinh kế: nhân đàn trâu, khai phá đất trồng bắp cải hàng hóa, thu nhập mỗi năm trên 100 triệu đồng, đồng thời giúp hơn 20 hộ trong thôn liên kết sản xuất, tạo vùng nguyên liệu cung ứng cho thị trường Hà Nội, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo 3–4% mỗi năm.

Từ mô hình chất vấn của bà Sến đến kinh tế của anh Cháng, thực tiễn Tuyên Quang khẳng định: đầu tư vào khai dân trí chính là đầu tư vào nền tảng của dân chủ. HĐND tỉnh không chỉ trao “vũ khí” tri thức cho cử tri qua nghị quyết, mà còn tạo ra môi trường dân chủ, bình đẳng để cử tri sử dụng “vũ khí” đó, giám sát và tham gia quyết định. Đây chính là mục tiêu cốt lõi. Một cử tri biết đọc là một cử tri có năng lực giám sát.

Một người dân hiểu được văn bản chính sách sẽ không còn mơ hồ về quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Từ năm 2024 đến nay, Tuyên Quang đã mở trên 100 lớp xóa mù chữ với gần 2.000 học viên – những con số nhỏ nhưng mang ý nghĩa lớn. Đó là 2.000 công dân đang được “khai sáng” để tham gia sâu hơn vào đời sống chính trị, là minh chứng cho một mô hình dân chủ từ cơ sở được nuôi dưỡng bằng tri thức.

Đa dạng hình thức tuyên truyền về chuyển đổi số đến người dân vùng cao.
Đa dạng hình thức tuyên truyền về chuyển đổi số đến người dân vùng cao.

Trong bối cảnh chuyển đổi số, dân quyền còn được mở rộng qua nền tảng công nghệ. Phong trào “Bình dân học vụ số” đang mở ra cơ hội mới, nhưng Tuyên Quang là tỉnh miền núi, biên giới, còn 183 thôn “lõm sóng”, trong đó 19 thôn vừa không có sóng, vừa chưa có điện. 164 thôn khác đã có điện nhưng vẫn “mù sóng”.

Vấn đề “xóa lõm sóng” đã trở thành nội dung nghị sự nóng tại các kỳ họp HĐND tỉnh.Từ thôn Mã Hoàng Phìn, xã Minh Tân, câu chuyện của anh Sùng Seo Vảng, đại biểu HĐND xã, cho thấy vai trò thiết thực của đại biểu cơ sở: “Khi HĐND tỉnh ban hành nghị quyết về chuyển đổi số, cử tri nói với tôi: đại biểu nói về 4.0, nhưng điện thoại của tôi còn không gọi được, lấy gì mà số?” Đây không phải lời than, mà là kiến nghị cử tri cấp bách, được anh Vảng đưa thành chất vấn chính thức và kiến nghị lên HĐND tỉnh.

Sau nhiều nỗ lực giám sát, đầu năm 2025, Mã Hoàng Phìn có điện lưới và trạm phát sóng di động năng lượng mặt trời. Tổ công nghệ số cộng đồng do anh Vảng làm tổ trưởng bắt đầu hoạt động. Buổi đầu tiên, họ không dạy Zalo hay định danh điện tử, mà dạy bà con gọi video call cho con cháu đi làm xa.

Khi nhìn thấy mặt người thân trên điện thoại, nhiều người bật khóc – đó là khoảnh khắc họ tin rằng công nghệ thực sự gần gũi. Ngày nay, bà con biết vào nhóm Zalo thôn để nhận thông báo từ HĐND xã, không cần đại biểu đi bộ cả buổi đường rừng để họp dân. “Từ ngày vào nhóm Zalo do đại biểu lập, chúng tôi biết hết nghị quyết mới, thấy thôn bên có hỗ trợ mà thôn mình chưa, nhắn hỏi đại biểu, họ trả lời ngay. Dân giờ được nói, được nghe ngay lập tức, sướng lắm.” - Bà Cháng Thị Mẩy, cử tri xã Bản Máy chia sẻ.

Hơn 70% người dân vùng sâu, vùng xa sử dụng điện thoại thông minh truy cập Internet thường xuyên.
Hơn 70% người dân vùng sâu, vùng xa sử dụng điện thoại thông minh truy cập Internet thường xuyên.

Nhờ mô hình “HĐND thúc đẩy chính sách – đại biểu biến nghị quyết thành hành động”, các cử tri “lõm sóng” dần trở thành chủ thể tích cực của dân quyền thời 4.0. Theo Sở Khoa học và Công nghệ, đến năm 2025, 100% xã, phường có tổ công nghệ số cộng đồng; hơn 70% người dân vùng sâu, vùng xa sử dụng điện thoại thông minh truy cập Internet thường xuyên.

Đại biểu HĐND không chỉ “phiên dịch” công nghệ thành ngôn ngữ đời thường, mà còn trực tiếp cùng tổ công nghệ số cộng đồng hướng dẫn cử tri từ cách đăng ký dịch vụ công, lập nhóm Zalo, đến sử dụng Internet phục vụ sản xuất, giao tiếp và giám sát chính quyền.

Người dân vùng cao sử dụng kỹ năng số để phát triển du lịch, bán hàng nông sản, mang lại thu nhập khá.
Người dân vùng cao sử dụng kỹ năng số để phát triển du lịch, bán hàng nông sản, mang lại thu nhập khá.

Từ lớp học đêm, tiếng loa di động, “người phiên dịch chính sách”, vai trò của người có uy tín đến chính quyền số, Tuyên Quang đang xây dựng nền dân chủ cơ sở toàn diện: nơi dân trí, ngôn ngữ, uy tín cộng đồng và công nghệ số hòa quyện, biến quyền làm chủ của người dân thành thực tế sống động, bền vững. Và từ những thực tiễn này, câu hỏi đặt ra cho các đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp là làm thế nào tiếp tục hiến kế, ban hành chính sách và cơ chế hỗ trợ để nhân rộng mô hình phù hợp với đặc thù từng địa phương, đảm bảo dân trí, dân quyền không chỉ lan tỏa mà còn được củng cố bền vững trên toàn quốc.

Thực hiện: Mai Thông, Chúc Huyền, Biện Luân, Thu Phương,
          Giang Lam, Hoàng Hà, Lê Duy - Thiết kế: Nguyễn Luyến

Kỳ 1: Diệt “Giặc dốt” – Gốc rễ của dân chủ
Kỳ cuối: Niềm tin cử tri, hành động của đại biểu


Ý kiến bạn đọc


Đọc tiếp