Báo Tuyên Quang điện tử
.

Kỳ cuối: Niềm tin cử tri, hành động của đại biểu

01:06, 10/11/2025
 

Từ phong trào “diệt giặc dốt” năm 1945 đến lớp học xóa mù chữ hôm nay, hành trình nâng cao dân trí, mở rộng dân quyền đã bền bỉ thắp sáng tinh thần dân chủ ở cơ sở. Ở Tuyên Quang - tinh thần ấy đang được tiếp nối bằng bản lĩnh, trí tuệ và trách nhiệm của đội ngũ đại biểu trước thềm bầu cử Quốc hội khóa XVI và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2026–2031.

Kỳ cuối của loạt bài tiếp tục đặt ra yêu cầu mới: biến niềm tin của cử tri thành hành động cụ thể của người đại biểu dân cử. Bởi nếu “khai dân trí” là gốc, “vững dân quyền” là nền, thì hành động của đại biểu chính là nhịp cầu nối lý tưởng dân chủ với thực tiễn cuộc sống.

Dưới đây là những ý kiến, góc nhìn và đề xuất của chuyên gia, đại biểu dân cử và cử tri nhằm củng cố niềm tin của Nhân dân bằng hành động thực chất, để mỗi nghị quyết không chỉ đúng về lý, mà còn hợp với lòng dân. Đây không chỉ là nhiệm vụ hôm nay mà còn là bước đệm để mỗi thế hệ tiếp theo của vùng cao được thụ hưởng tri thức, quyền lợi và cơ hội phát triển - củng cố nền dân chủ thực chất cho cả nước.

 

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về Nhân dân; Nhân dân thực hiện quyền lực đó thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và bằng chính sự tham gia, giám sát trong đời sống hàng ngày. Vì vậy, đại biểu của Nhân dân chính là “trái tim” của nền dân chủ, là cầu nối giữa ý chí, nguyện vọng của dân với hoạt động của bộ máy nhà nước.

Chính vì vậy, đại biểu mạnh là người dám nghĩ, dám nói, dám làm và dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Một đại biểu mạnh không chỉ cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, mà còn phải gần dân, hiểu dân và nói tiếng nói trung thực của dân. Họ phải biết lắng nghe tâm tư của cử tri, phản ánh đúng, giám sát nghiêm, góp phần xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh.

Đại biểu mạnh thể hiện sức mạnh của dân chủ, giúp tiếng nói của người dân được vang xa trong nghị trường và trong từng quyết sách phát triển. Ngoài ra việc nâng cao chất lượng đại biểu dân cử cũng là yêu cầu then chốt để củng cố niềm tin của Nhân dân trong đó công tác nhân sự cần được đổi mới mạnh mẽ, từ khâu lựa chọn, giới thiệu, đến đánh giá và bồi dưỡng ứng viên. 

Sinh thời, trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo bồi dưỡng, giáo dục rèn luyện về mọi mặt cả phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, cả trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Những phẩm chất nhân cách đó của người cán bộ, đảng viên đã được Hồ Chí Minh khái quát ngắn gọn trong hai chữ Đức và Tài. Từ đó Đức và Tài đã trở thành tiêu chuẩn, giá trị cơ bản cho mỗi người cán bộ, đảng viên phấn đấu, rèn luyện và cũng là tiêu chuẩn cơ bản để xem xét, đánh giá, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, đảng viên.

Trước lúc đi xa, Người còn căn dặn: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Tiêu chí này phải được cụ thể hóa bằng những chuẩn mực về phẩm chất, năng lực, uy tín và khả năng cống hiến. Có thể nói, người đại biểu hôm nay không chỉ đại diện cho tiếng nói của Nhân dân, mà còn là hiện thân của trí tuệ và bản lĩnh chính trị.

Dân quyền vững là nền tảng để dân chủ không bị hình thức hóa, khi người dân có đầy đủ thông tin, có cơ chế đối thoại, giám sát, khi ý kiến của dân được lắng nghe và phản hồi kịp thời, thì quyền làm chủ của Nhân dân được bảo đảm thực chất. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ta đã khẳng định “Phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và trách nhiệm xã hội”.

Việc công khai quy hoạch, ngân sách, dự án hỗ trợ dân sinh theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” đã giúp người dân chủ động tham gia và đồng thuận hơn với chính quyền; Chính sự minh bạch và đối thoại đã làm nên sức mạnh của dân quyền – một sức mạnh bền vững bắt nguồn từ niềm tin.

Song song với đó, việc bồi dưỡng kỹ năng cho đại biểu cần được tiến hành thường xuyên, có trọng tâm và phù hợp với từng nhóm đối tượng. Quốc hội đã chỉ đạo tăng cường các khóa tập huấn về kỹ năng phân tích chính sách, giám sát ngân sách, tiếp xúc cử tri, phản biện xã hội… giúp đại biểu không chỉ “biết việc” mà còn “làm được việc”.

Quan trọng hơn cả, mỗi đại biểu phải tự ý thức rằng, trách nhiệm đại diện nhân dân không phải là danh vị, mà là sứ mệnh. Muốn nói đúng, làm đúng và làm được, đại biểu phải học, phải đọc, phải hiểu, phải dấn thân. Khi đại biểu vững vàng về phẩm chất và năng lực, dân quyền mới được bảo đảm thực chất.

Dân chủ bền là khi niềm tin giữa dân và chính quyền được củng cố mỗi ngày; là khi đại biểu thật sự đại diện cho dân, hành động vì dân và khi người dân được tham gia vào những quyết định liên quan đến đời sống của mình. Dân chủ không chỉ là khẩu hiệu, mà là hành trình lâu dài – nơi từng người dân đều thấy mình có vai trò, có tiếng nói và có trách nhiệm.

Như vậy xây dựng “Đại biểu mạnh – Dân quyền vững – Dân chủ bền” chính là góp phần làm sâu sắc hơn giá trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam – nhà nước của dân, do dân và vì dân. Khi đại biểu mạnh mẽ, dân quyền được bảo đảm và dân chủ trở thành nếp sống, thì sức mạnh của đất nước sẽ ngày càng bền vững, hội tụ ý chí và niềm tin của toàn dân tộc.

 

Tuyên Quang là mảnh đất biên cương nơi địa đầu cực Bắc của Tổ quốc, giữ vị trí địa chính trị, địa kinh tế quan trọng và là nơi hội tụ, gắn bó của 22 dân tộc anh em cùng sinh sống. Sự đa dạng ấy tạo nên bản sắc phong phú nhưng cũng đặt ra không ít thách thức trong công tác dân vận và phát huy dân chủ ở cơ sở.

Trình độ dân trí giữa các vùng, các dân tộc chưa đồng đều; ở nhiều nơi, đồng bào vẫn duy trì phong tục, tập quán lạc hậu; một bộ phận người dân chưa thông thạo tiếng Việt, thậm chí còn mù chữ, tái mù chữ. Trong bối cảnh đó, người đại biểu dân cử không thể chỉ gắn mình với nghị trường, mà phải hòa mình vào đời sống của dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.

Thực tế cho thấy, ở nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số, sự thay đổi trong nhận thức và hành vi không thể đến từ mệnh lệnh hành chính, mà phải bắt đầu từ sự thấu hiểu và vận động khéo léo. Tại Cao nguyên đá Đồng Văn, từng có thời, tang lễ của người Mông mang nặng hủ tục: Khi gia đình có tang, anh em họ hàng đều mang lễ một con bò để giúp gia chủ, với mong muốn người âm ở thế giới bên kia có “của ăn của để”.

Sau khi làm lễ, gia súc buộc phải giết thịt toàn bộ. Bởi vậy, có những đam tang giết mổ tới 12 con bò, 50 con lợn cùng rất nhiều gia cầm, ước tính lên đến vài trăm triệu đồng/đám tang. Để rồi sau đó, gia đình lâm vào cảnh nợ nần, túng quẫn vì trả món “nợ đồng lần”. Hay như tập tục không đưa người chết vào áo quan cũng bắt nguồn từ điều kiện sinh tồn khắc nghiệt xưa kia, khi đồng bào sống rải rác trên núi cao, lo sợ chiến loạn nên đã tính phương án không cho thi thể vào áo quan để dễ dàng di chuyển nếu xảy ra biến cố.

Nói như vậy để thấy rằng, những hủ tục đã bám rễ sâu trong đời sống đồng bào qua nhiều thế hệ, việc thay đổi không thể diễn ra trong ngày một, ngày hai. Bởi vậy, mỗi đại biểu dân cử phải thật sự hiểu dân, gần dân, biết cách truyền đạt chính sách bằng tri thức, văn hóa và niềm tin mới. Chính nhờ sự bền bỉ và phương thức “dân vận khéo” của đội ngũ cán bộ, đại biểu dân cử ở cơ sở, những hủ tục từng tồn tại dai dẳng hàng trăm năm ấy dần được thay thế bằng cách làm tiến bộ, khoa học – đưa người chết vào áo quan.

Làm “dân vận khéo” chính là cầu nối giữa chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước với đời sống thực tiễn của nhân dân. Khi đại biểu gần dân, sát dân, hiểu phong tục, ngôn ngữ, tâm lý của đồng bào, thì tiếng nói của họ tại nghị trường mới thực sự có sức nặng, phản ánh đúng hơi thở của cuộc sống. Ngược lại, nếu xa dân, thiếu thực tiễn, thì dù nghị quyết có đúng, cũng khó đi vào lòng dân.

Vì vậy, xây dựng đội ngũ đại biểu dân cử ở Tuyên Quang “vừa có tâm, vừa có tầm, vừa có tài dân vận” là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả hoạt động dân cử và củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, chính quyền. Khi đại biểu thấu hiểu, biết truyền đạt tri thức, họ không chỉ đưa chính sách vào đời sống mà còn nâng cao dân trí, mở rộng dân quyền, để mỗi quyết sách đi vào lòng dân, phát huy sức mạnh làm chủ của nhân dân, từ đó củng cố nền dân chủ thực chất, bền vững.

 

Công cuộc xóa mù chữ chỉ thật sự bền vững khi người học có môi trường duy trì, thực hành và giao tiếp thường xuyên bằng tiếng phổ thông. Với đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là người cao tuổi, việc biết chữ không khó, nhưng giữ chữ và dùng chữ mới là thách thức lớn. Nhiều người sau khi tham gia lớp học xóa mù lại dần quên, bởi quanh họ,  từ gia đình, bản làng, chợ phiên đến buổi họp thôn đều hiếm khi có cơ hội sử dụng tiếng phổ thông.

Vì thế, cần chuyển trọng tâm từ “dạy chữ” sang tạo môi trường ngôn ngữ bền vững. Tiếng Việt phải trở thành ngôn ngữ của sinh hoạt và hội nhập, chứ không chỉ của nhà trường.

Ở các thôn bản, nên khuyến khích mô hình câu lạc bộ tiếng Việt, lớp học cộng đồng, hay sinh hoạt văn hóa, văn nghệ xen kẽ tiếng mẹ đẻ và tiếng phổ thông. Loa phát thanh, họp thôn, bản tin HĐND, tổ công nghệ số cộng đồng… nên truyền tải thông tin bằng cả tiếng dân tộc và tiếng phổ thông, để người dân vừa nghe hiểu, vừa dần hình thành thói quen giao tiếp bằng tiếng chung của quốc gia.

Đặc biệt, nên phát huy mô hình “học liên thế hệ”, trong mỗi gia đình, cộng đồng, người thành thạo tiếng phổ thông kèm người chưa thành thạo tiếng phổ thông. Chính môi trường gia đình và cộng đồng ấy mới giúp người dân không chỉ “thoát mù chữ” mà còn sống trong tri thức, hiểu được chính sách, pháp luật, và mạnh dạn thực hành quyền công dân.

Bởi xét đến cùng, nâng dân trí không chỉ là dạy con chữ, mà là trao cho người dân công cụ để đối thoại, để làm chủ và để phát triển. Khi tiếng phổ thông trở thành cầu nối giữa các dân tộc, dân quyền được mở rộng, dân chủ được củng cố, đó mới là thành công thực chất của sự nghiệp giáo dục vùng cao hôm nay.

 

Vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là những địa bàn còn nhiều khó khăn về điều kiện kinh tế, hạ tầng, giáo dục và y tế. Do đó, việc nâng cao chất lượng các cuộc giám sát của Quốc hội, HĐND và các cơ quan chức năng về dân trí, dân sinh tại các khu vực này là hết sức cần thiết. Tôi cho rằng cần tập trung vào một số giải pháp sau.

Thứ nhất, cần đa dạng hóa phương thức giám sát. Việc giám sát không chỉ dựa vào báo cáo giấy tờ, cần kết hợp khảo sát trực tiếp, gặp gỡ cộng đồng, phỏng vấn người dân và các tổ chức xã hội để nắm bắt thực tế đời sống, nhu cầu chính đáng của đồng bào.

Thứ hai, cần tăng cường năng lực cán bộ giám sát. Các đoàn giám sát cần được trang bị kiến thức chuyên sâu về văn hóa, phong tục, ngôn ngữ dân tộc; đồng thời nắm rõ các chính sách dân tộc, chương trình phát triển vùng cao để có đánh giá chính xác, toàn diện.

Thứ ba, chú trọng kết quả thực chất. Giám sát phải gắn với đề xuất giải pháp khả thi, tránh hình thức. Những thông tin thu thập được cần chuyển thành các kiến nghị cụ thể về giáo dục, y tế, hạ tầng và phát triển kinh tế, góp phần nâng cao dân trí, cải thiện đời sống cho đồng bào.

Thứ tư, thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng. Khuyến khích người dân, các già làng, trưởng bản, tổ chức xã hội tham gia giám sát, phản ánh trung thực nhu cầu, khó khăn và những bất cập trong thực hiện chính sách, từ đó tăng tính minh bạch, dân chủ.

Tôi tin rằng, nếu giám sát được triển khai bài bản, thực chất, sẽ vừa nâng cao hiệu quả đầu tư, chính sách, vừa góp phần xây dựng niềm tin của người dân vào bộ máy Nhà nước, thúc đẩy phát triển bền vững vùng cao và đồng bào dân tộc thiểu số.

 

Những năm gần đây, nhờ chủ trương của Đảng, Nhà nước, đời sống bà con vùng cao chúng tôi đã có nhiều đổi thay. Đường vào bản được bê tông hóa, con cháu được đến trường, bà con đã biết làm du lịch cộng đồng, làm homestay để tăng thu nhập.

Cuộc sống khá hơn trước, nhưng nói thật, ở nhiều nơi vùng cao vẫn còn khó khăn lắm. Nhiều hộ chưa có điện lưới quốc gia, thiếu nước sạch, trường học còn tạm, cơ sở vật chất thiếu thốn. Nhiều phụ huynh chưa nói sõi tiếng phổ thông, việc dạy và học của con trẻ cũng vì thế mà vất vả hơn. Văn hóa truyền thống của dân tộc Dao, Mông, Tày… cũng đang dần bị mai một.

Chúng tôi mong các đại biểu dân cử thật sự gần dân, chịu khó lên bản làng, ở với dân, nghe dân nói. Có như thế mới hiểu hết được bà con đang cần gì, đang vướng chỗ nào. Đại biểu phải hiểu phong tục, tập quán, hiểu cái khó của vùng cao thì khi nói trong nghị trường mới nói trúng, mới đề xuất được chính sách phù hợp với thực tế. Nhiều khi dân chúng tôi chỉ cần được nghe, được chia sẻ, được giải thích cặn kẽ để biết cách làm ăn, cách tiếp cận chính sách thôi, như thế đã quý lắm rồi.

Chúng tôi mong các đại biểu đừng chỉ nghe qua báo cáo, mà hãy đến tận nơi xem đường, xem trường, xem đời sống của dân thế nào. Có nhiều chính sách rất tốt, nhưng khi thực hiện ở miền núi lại gặp khó vì địa hình, vì phong tục. Đại biểu mà hiểu được điều đó thì khi phát biểu, khi kiến nghị, chắc chắn sẽ giúp ích nhiều cho bà con.

Cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2026–2031 không còn xa. Chúng tôi, những cử tri vùng cao, sẽ phát huy tinh thần làm chủ, lựa chọn người đủ tài, đủ đức, dám nói, dám kiến nghị, dám bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân.

Tôi tin rằng, nếu các đại biểu làm được điều đó, thì chính sách của Nhà nước sẽ đến được với từng bản, từng hộ dân, để đồng bào vùng cao ngày càng bớt khổ, bớt nghèo, con cháu chúng tôi có tương lai tươi sáng hơn.

 

Với vai trò là Phó Giám đốc Trung tâm UNESCO Nghiên cứu phát triển văn hoá giáo dục (UCED), tôi tin tưởng sâu sắc rằng, con đường căn cơ và bền vững nhất để nâng cao dân trí, đặc biệt là tại các tỉnh miền núi, chính là gieo mầm và vun đắp văn hoá đọc ngay từ gốc rễ. Chúng ta nói nhiều về "nâng cao dân trí", nhưng dân trí không thể tự nhiên mà có, nó phải bắt đầu từ sự khai mở trong từng cá nhân, và sách là công cụ khai mở hiệu quả nhất.

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia thành công cho thấy, sai lầm lớn nhất là chúng ta "ép" trẻ đọc, trong khi lẽ ra phải "dụ" trẻ yêu sách. Tôi rất tâm đắc với triết lý của người Do Thái xưa. Họ "đổ mật ong lên sách" cho trẻ nhỏ. Đây là một hình ảnh ẩn dụ tuyệt vời cho việc tạo ra trải nghiệm đọc "ngọt ngào", tích cực ngay từ lần đầu tiên. Hành trình này phải bắt đầu từ rất sớm, ngay từ 3 tuổi, khi các em chưa biết chữ. Lúc này, “đọc” là xem tranh, là chạm, là cảm nhận cuốn sách như một người bạn, một món đồ chơi hấp dẫn.

Nhưng có sách tốt chưa đủ, phải xây dựng được một hệ sinh thái đọc. Đây là nơi các em được thảo luận về một cuốn sách, cùng chơi các bộ thẻ game về đọc sách, hay tham gia các cuộc thi... Chúng ta phải biến việc đọc từ một hành động thụ động, đơn độc thành một trải nghiệm tương tác, vui vẻ và có tính kết nối.

Triết lý này được chúng tôi, cùng các đối tác tâm huyết như Cộng đồng Sống tử tế Việt Nam, hiện thực hóa qua Dự án "Tủ sách tinh hoa". Chúng tôi rất vui mừng khi trong năm 2025, dự án đã đến với 16 trường học miền núi tại Tuyên Quang. Điểm cốt lõi của dự án không phải là trao tặng sách, mà là mang đến các chuyên gia để "dẫn dắt" đam mê. Chúng tôi hỗ trợ các nhà trường cách duy trì thói quen đọc, phương pháp lựa chọn sách hiệu quả, và quan trọng nhất là cách vận hành các tủ sách tại trường học để chúng thực sự "sống".

Mục tiêu của chúng tôi là lan tỏa văn hóa đọc vượt ra khỏi cổng trường, tác động đến cả các bậc phụ huynh, bởi trẻ em cần một môi trường đọc đồng nhất. Chúng tôi tâm niệm phương châm: "Để mỗi thầy cô là một người thổi hồn nhân cách. Để mỗi phụ huynh là một tấm gương mẫu mực. Để mỗi học sinh là một hạt mầm trí tuệ. Để mỗi ngôi trường là một nơi đầy hạnh phúc".

Từ những 'ngôi trường hạnh phúc' đó, từ những 'hạt mầm trí tuệ' được gieo hôm nay, văn hóa đọc sẽ lan tỏa ra cộng đồng. Đó chính là giải pháp căn cơ nhất để góp phần nâng cao dân trí một cách bền vững cho Tuyên Quang và cả nước.

Thực hiện: Mai Thông, Chúc Huyền, Biện Luân, Thu Phương,
Giang Lam, Hoàng Hà, Lê Duy  -  Thiết kế: Nguyễn Luyến

 

Kỳ 1: Diệt “Giặc dốt” – Gốc rễ của dân chủ
Kỳ 2: Khai dân trí – Vững nền dân chủ ở cơ sở


Ý kiến bạn đọc


Đọc tiếp