Kỳ 1: Chông chênh con chữ giữa mây ngàn
![]() |
Trên những bản làng mờ sương, con chữ đến với trẻ em vùng cao chênh vênh như chính con đường các em đi qua mỗi ngày. Ở đó, ước mong giản dị nhất của thầy cô không phải là những tấm bằng khen, mà là: “Chỉ cần biết nói Tiếng Việt”. Mù chữ, tái mù chữ, tảo hôn... trở thành nỗi day dứt kéo dài, khiến giấc mơ thoát nghèo, đổi đời của nhiều học trò nơi biên cương xứ Tuyên vẫn còn dang dở.
![]() |
![]() |
Gánh nặng mưu sinh khiến phụ nữ vùng biên cương Sơn Vĩ quên hết tiếng Việt. |
Chiều thu biên cương rực vàng dưới ánh nắng nhẹ, gió se nhè nhẹ lướt qua triền núi. Trên con đường bê tông dẫn vào thôn Lùng Thúng, xã Sơn Vĩ, những người mẹ dân tộc Mông bước đi chậm rãi, trên lưng địu đứa con nhỏ còn thơm mùi sữa.
![]() |
Câu trả lời ngắn ngủi, lạc lõng giữa lời chào thân thiện ấy như một nhát cắt vào lòng, để rồi qua lời phiên dịch của thầy giáo Vũ Minh Đức, Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Thượng Phùng, chúng tôi mới vỡ ra câu chuyện buồn nơi biên viễn. Ở tuổi 17, cuộc đời Vừ Thị Si rẽ sang ngã khác khi theo chồng về chung một nhà. Giờ đây, ở tuổi xuân 24, Si đã là mẹ của 4 đứa con thơ. Si chưa từng một ngày cắp sách tới trường, không biết chữ, tiếng Việt cũng trở nên xa lạ. Chồng của Si là anh Thò Mí Lừ – học dở dang lớp 6 rồi cũng bỏ giữa chừng, đi làm thuê kiếm tiền nuôi gia đình. Cả nhà quẩn quanh trong vòng tròn khép kín của tảo hôn, mù chữ và đói nghèo
Không chỉ có Si, Hạ Thị Lình (thôn Sín Phìn Chư) cũng theo chồng “làm dâu nhà người” khi mới 17 tuổi. Lình kể, hai vợ chồng học xong lớp 8 rồi bỏ học, ở nhà làm nương. Tiếng Việt thầy cô dạy ngày xưa giờ gần như quên hết. Nay muốn đi học lại, nhưng đã có ba con gái cần chăm sóc, lại chưa có con trai, còn phải lo sinh thêm để nối dõi tông đường.
Câu chuyện của Lình không phải hiếm ở miền biên cương. Chị Vừ Thị Súa, 28 tuổi ở thôn Sủa Nhà Lử cũng chung số phận. Từng biết đôi nét chữ khi học hết lớp 5, nhưng bao năm lam lũ khiến tất cả trở thành xa lạ. Giờ đây, nặng gánh mưu sinh với 5 đứa con thơ cần chăm sóc, Súa gần như không có thời gian để học lại tiếng Việt. Và rồi, không ít lần làm giấy tờ, thủ tục hành chính, chị lại lắc đầu nói “chi pâu” như chính lời cảnh tỉnh về nỗi thiếu thốn chữ nghĩa trong đời sống thường nhật.
Những phận đời như Si, Súa, Lình chỉ là những lát cắt trong bức tranh rộng lớn ở miền biên viễn Sơn Vĩ và không ít địa bàn vùng sâu, vùng xa khác của tỉnh Tuyên Quang. Họ cùng một điểm chung: Tuổi thanh xuân gắn với đồi nương, chưa từng hoặc không còn nhớ con chữ, tiếng Việt trở nên xa lạ. Và khi mất đi khả năng đọc – viết, họ cũng mất đi “chìa khóa” mở cánh cửa tri thức, mất đi cơ hội bước ra khỏi vòng luẩn quẩn nghèo khó.
![]() |
Tại Trường PTDT Bán trú Tiểu học Ma Lé, xã Lũng Cú, nhiều thầy cô giáo vi von vui "Tiếng Việt ở đây không phải là tiếng mẹ đẻ, nó là một môn ngoại ngữ đặc biệt". Sự đặc biệt ấy được minh chứng rõ nhất ngay trong buổi điểm danh đầu năm.
![]() |
Học sinh không biết tiếng phổ thông dẫn đến không hiểu bài, rồi sợ hãi, chán nản và dễ dàng bỏ học. Trước nghịch lý đó, mục tiêu giáo dục của thầy cô không còn là hoàn thành chương trình. Thầy Phạm Trọng Tâm cô đọng lại thành một ước nguyện cháy bỏng, giản dị đến nhói lòng: "Chúng tôi chỉ mong, qua hết lớp Một, các con nói thông thạo tiếng Việt. Chỉ cần các con giao tiếp được Tiếng Việt, đó đã là chiến thắng lớn nhất rồi. Bởi lẽ, khi Tiếng Việt được gieo trồng thành công, nó sẽ là chiếc cầu nối vững chắc nhất để học trò vùng cao tiếp thu kiến thức”.
![]() |
Mục tiêu của trường Ma Lé đơn giản là mong qua lớp 1, các con thông thạo tiếng Việt. |
Sự day dứt và ước nguyện chân thành của thầy trò Lũng Cú không phải là câu chuyện riêng lẻ. Nó là tiếng lòng chung, là nỗi trăn trở hằng ngày của biết bao giáo viên đang miệt mài gieo chữ tại các bản làng vùng cao Tuyên Quang.
![]() |
![]() |
Con đường đến trường của trẻ em vùng cao dài hơn cả tuổi thơ |
Ở miền biên viễn, con đường đến lớp không chỉ là lối mòn, dốc núi trơn trượt, nương đá tai mèo sắc nhọn mà còn là hành trình chinh phục tri thức đầy thử thách. Với nhiều đứa trẻ vùng cao, con chữ vốn đã xa vời, nay lại dài tựa như con dốc dựng đứng trước mắt khi cái đói, cái nghèo bủa vây khiến nhiều giấc mơ học tập chưa kịp nở đã tàn lụi giữa lưng chừng núi đá.
![]() |
Lời nói tưởng giản đơn ấy đã khép lại cánh cửa tuổi thơ, dập tắt ngọn lửa ham học trong ánh mắt con trẻ. Đến khi trưởng thành, nhiều em vẫn quanh quẩn trong vòng luẩn quẩn “chi pâu” – không biết chữ, không biết tiếng Việt, không thể mở lối thoát cho cuộc đời mình.
Câu chuyện của Si không chỉ phản ánh nhận thức hạn hẹp trong một gia đình, mà còn lột tả căn nguyên tình trạng mù chữ và tái mù chữ nơi vùng cao khi cái đói, cái nghèo luôn thắng con chữ. Với vài sào nương, vài con bò, mỗi đôi tay lao động đều quý giá. Sùng Mí Nô, sinh năm 2011, xã Yên Minh, học hết lớp 5 buộc phải nghỉ, theo bố mẹ lên nương, cắt cỏ cho bò. Nô chia sẻ lý do giản dị: “Bố bảo nhà không có người làm việc thì con ở nhà giúp bố mẹ”.
![]() |
Con đường đến lớp của trẻ em vùng cao không chỉ gian nan bởi núi đèo mà còn bởi gánh nặng mưu sinh, thậm chí có em phải nghỉ học để phụ giúp gia đình. |
Trẻ em bỏ học vì nghèo, không chỉ là câu chuyện riêng từng gia đình, mà còn là sự mất mát lớn cho cộng đồng. Mỗi học sinh rời trường là một cơ hội thoát nghèo bỏ lỡ, một tương lai bấp bênh đặt vào vòng luẩn quẩn khó khăn và lạc hậu. Phó Chủ tịch UBND xã Sơn Vĩ, Trần Việt Hùng chia sẻ: “Khoảng 30% học sinh trên địa bàn xã sau khi học hết cấp 2 bỏ học, đi lao động tự do. Trước mắt, quyết định ấy mang lại thu nhập tăng thêm cho gia đình nhưng về lâu dài, nó để lại hệ lụy nặng nề: Lao động thiếu kỹ năng, thiếu chất lượng, những cơ hội học tập và phát triển năng lực trôi đi mất, đồng thời đặt thêm gánh nặng cho chính các em và cả cộng đồng.
Học tiếp đồng nghĩa thiếu người làm việc nhà, thiếu cái ăn trước mắt. Con đường chữ nghĩa đành dở dang, nhường chỗ cho bổn phận mưu sinh. Nghèo đói vẫn là chiếc “vòng kim cô” siết chặt khát vọng đến trường của trẻ em miền núi.
![]() |
Bi kịch ấy còn đến từ quan niệm trọng nam khinh nữ. Chị Vàng Thị Say, sinh năm 2005, xã Sủng Máng là minh chứng điển hình. Suốt 9 năm học liền, Say là học sinh tiên tiến, con ngoan, trò giỏi. Cô gái miền sơn cước ấy từng ấp ủ giấc mơ trở thành hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu vẻ đẹp quê hương đến bạn bè trong nước và quốc tế. Thế nhưng, ngay trước ngưỡng cửa lớp 10, chỉ một câu nói của bố: “Con gái không cần học nhiều chữ”, đã dập tắt ước mơ đang cháy bỏng của Say.
![]() |
Nhưng kỳ vọng của người bố vào anh trai Si cũng dang dở. Anh trai học hết lớp 12 rồi đi lao động xa quê, còn Say đành gác lại sách vở, làm thuê ở quán cà phê. Mỗi tháng, Say kiếm được gần 5 triệu đồng – con số không nhỏ ở miền núi. Nhưng đằng sau nụ cười ấy là nỗi tiếc nuối âm ỉ, giá như có cơ hội học tập, giá như giấc mơ không bị khép lại bởi định kiến, cuộc đời Say có thể rẽ sang một hướng khác vững vàng và tươi đẹp hơn.
Câu chuyện của Say cho thấy, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn ăn sâu bám rễ trong nhiều gia đình ở vùng cao khiến việc học của con gái bị coi là thứ yếu. Con trai được đầu tư để “rạng danh dòng họ”, còn con gái sớm muộn cũng “theo người ta”. Chính những quan niệm lạc hậu này vô tình tước đi cơ hội đổi đời của biết bao cô gái vùng cao.
![]() |
Mù chữ, bỏ học giữa chừng không chỉ cướp đi cơ hội của tuổi trẻ mà còn kéo dài như một gánh nặng theo suốt đời người. Bà Hồ Seo Mẩy (gần 70 tuổi), người Lô Lô ở xã Sơn Vĩ là minh chứng sống. Suốt đời gắn bó với nương rẫy, bà chưa từng biết tiếng phổ thông; đến nay, mọi giấy tờ, thủ tục hành chính đều phải nhờ cán bộ viết giúp. Nhiều khi bà chỉ biết đặt dấu điểm chỉ.
![]() |
Không riêng bà Mẩy, ở thôn Khai Hoang 3 – nơi có 54 hộ với 100% là đồng bào Mông sinh sống nhưng chỉ khoảng 20% người dân biết ký tên, còn lại vẫn phải điểm chỉ. Trung bình mỗi ngày, xã Sơn Vĩ giải quyết tới 50 thủ tục hành chính cho người dân, nhưng có tới 90% hồ sơ buộc phải “đóng dấu” bằng dấu vân tay. Những hình ảnh, con số ấy khiến nhiều người chứng kiến không khỏi chạnh lòng về khoảng trống chữ nghĩa: Thiếu kiến thức cơ bản, ngay cả những quyền lợi tưởng giản đơn cũng trở thành rào cản, cơ hội hòa nhập với nhịp sống hiện đại và thay đổi số phận gần như lỡ dở; còn chính quyền cơ sở cũng thêm nặng gánh.
![]() |
90% hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính ở xã Sơn Vĩ phải “đóng dấu” bằng dấu vân tay. |
![]() |
Hệ lụy của việc không biết tiếng Việt không chỉ dừng lại ở những tờ giấy hành chính phải điểm chỉ, nó còn hiện hữu trong từng nhịp sống thường nhật của không ít người.
![]() |
Thay vì cứu ruộng lúa khỏi sâu bệnh, ông lại tự tay “đầu độc” cả cánh đồng, để rồi chỉ sau một đêm, màu xanh sự sống hóa thành khoảng trống tang thương. Một nhầm lẫn tưởng nhỏ, nhưng đủ hóa thành thảm họa, đẩy cái nghèo cái khổ thêm phần dai dẳng. Nếu như ông Giàng Seo Pao mất trắng mùa màng vì nhầm thuốc thì câu chuyện của chị Lù Thị Ve, người dân tộc Nùng ở thôn Pù Ngọm, xã Bắc Quang lại gióng lên nỗi lo khác về sự an toàn sức khỏe của chính bản thân.
![]() |
Chị Ve chia sẻ, một lần đổ bệnh chị phải điều trị ở cơ sở y tế. Ngày ra viện, bác sĩ dặn dò cặn kẽ cách dùng thuốc, nhưng khi trở về nhà, cầm toa thuốc trên tay, những dòng chữ trước mắt họ chỉ như ký hiệu vô nghĩa. Cả nhà bối rối, loay hoay, rồi đành gác thuốc lại, chờ đến hôm sau tìm người đọc hộ. Chỉ một ngày chậm trễ, tưởng như nhỏ bé, nhưng đủ biến việc uống một liều thuốc bình thường thành cuộc đánh cược với sức khỏe. Nỗi day dứt ấy ám ảnh: mù chữ đã khiến ngay cả tờ toa thuốc cứu người cũng hóa thành mảnh giấy vô tri.
Nếu những câu chuyện đời thường của Si, Súa, Say hay Nô khiến ta chạnh lòng thì những con số thống kê lại phơi bày một thực tế còn đáng suy ngẫm hơn khi khoảng cách giáo dục ở vùng cao vẫn còn quá xa so với mặt bằng chung cả nước. Những lớp học tạm, phòng ở chật chội, giáo viên thiếu trước hụt sau… không chỉ làm tri thức trở nên mong manh mà còn kéo theo những hệ lụy lâu dài. Và khi nhìn thẳng vào những con số, ta thấy rõ mù chữ không chỉ gieo nghèo đói mà ở vùng biên giới, nó còn tiềm ẩn những nguy cơ an ninh khó lường.
Theo thống kê của Sở Giáo dục và Đào tạo: Ở nhóm tuổi 15–25, tỷ lệ biết chữ mức độ 1 đạt 98,87%, mức độ 2 đạt 97,34%, phản ánh sự lan tỏa của chính sách phổ cập. Nhóm tuổi 15–35 cũng duy trì tỷ lệ khá cao, lần lượt 98,09% và 95,65%. Nhưng bước sang nhóm tuổi rộng hơn 15-60, con số giảm xuống còn 95,77% (mức độ 1) và đặc biệt chỉ 87,85% ở mức độ 2.
Con số trên cho thấy, càng ở nhóm tuổi cao, tỷ lệ tái mù chữ càng lớn, nhất là với người dân vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số ít có điều kiện sử dụng tiếng Việt. Vì thế, dù kết quả xóa mù chữ những năm qua của Tuyên Quang đáng ghi nhận, song vẫn còn những khoảng trống khó lấp đầy. Đó là thực tế của một vùng biên còn nhiều khó khăn, nơi con chữ chưa kịp bén rễ đã dễ dàng vụt tắt, để lại những hệ lụy âm thầm nhưng dai dẳng và nhức nhối.
Thực hiện: Chúc Huyền, Biện Luân, Thu Phương, Giang Lam, Nguyễn Luyến