Kỳ 3: Những người "chèo đò" trên núi
![]() |
![]() |
Trên con đường lổn nhổn đá, vắt ngược triền núi dẫn vào điểm trường Mầm non Thàn Chư, xã Sơn Vĩ, đôi chân cô giáo Nguyễn Thị Thiền, dân tộc Tày đã in dấu suốt hơn mười năm nay. Sơn Vĩ là xã xa nhất của tỉnh, đường đi đầy gian nan, mùa đông sương giăng đặc quánh, băng giá phủ đầy. Những đứa trẻ người Mông nơi đây chưa nói sõi tiếng phổ thông, còn lớp học ghép 26 em từ 4 - 5 tuổi càng khiến công việc của các cô thêm nhọc nhằn.
![]() |
Nhà ở công vụ giáo viên tại điểm trường Cán Hồ, xã Lùng Tám |
Cô Thiền lặng lẽ kể: “Ngày tôi mới lên, lớp học chỉ là căn nhà gỗ tạm, mái dột, bàn ghế ọp ẹp. Trẻ em chân đất, đầu trần, nhiều em vừa quen mặt chữ lại phải bỏ lớp theo bố mẹ lên nương. Mỗi lần chứng kiến trò nghỉ học, tim tôi thắt lại. Điểm trường sau đó đã được đầu tư xây mới, nhưng đến nay cũng đang xuống cấp. Ở đây dân nghèo, trò nghèo, nếu không học thì vòng tròn nghèo ấy mãi quẩn quanh. Vậy nên dù có khó khăn, chúng tôi cũng cố gắng vượt qua, chỉ mong các em có tương lai tươi sáng”.
Cũng ở mảnh đất Sơn Vĩ này, cô Lưu Thị Hợp, quê xã Kim Bình, đã gắn bó với Trường PTDT Bán trú THCS hơn 16 năm. Ban đầu, cô nghĩ chỉ vài năm cống hiến rồi sẽ xin chuyển về quê. Thế nhưng tình yêu với học trò nghèo đã níu chân người giáo viên tâm huyết. Con trai cô Hợp khi mới 6 tháng tuổi phải theo mẹ lên trường, nhưng vì mùa đông khắc nghiệt, con ốm đau triền miên, cuối cùng phải gửi về quê nhờ ông bà chăm sóc.
![]() |
![]() |
Ở Ha Cá, thôn đặc biệt khó khăn của xã Khâu Vai, nơi hơn 80% đồng bào người Mông sinh sống, người dân bản quen gọi cô giáo Giàng Thị Máy, giáo viên điểm trường Ha Cá là người con của bản. Bởi ngoài vai trò là người gieo chữ, cô Máy còn như người mẹ hiền, luôn lo lắng chở che cho những đứa học trò nhỏ nơi đây.
Nhìn về phía những dãy núi mờ sương phía trước điểm trường, cô Máy nhớ lại: Điểm trường Ha Cá trước đây chỉ là mấy gian nhà dựng tạm. Mưa xuống, mái dột, vách xiêu, nền đất ẩm ướt, gió lùa lạnh buốt, cô trò dồn nhau vào một góc tránh gió. Những ngày lạnh, cô đốt bếp than hồng, trò quây quần sưởi ấm. Thiếu thốn trăm bề, nhưng tình cô trò cứ thế lớn dần lên". Ở mãi trên bản rồi quen nhịp sống bản làng, Cô Máy và các đồng nghiệp thường xuyên có mặt trong các ngày vui, lễ, tết của bản, cùng nâng chén rượu ngô ngày hội, cùng nhảy điệu múa xòe, khoác lên mình bộ quần áo của cô gái Mông tuổi xuân thì xinh đẹp.
Một ngày vui đến với điểm trường trước thềm năm học mới 2025, khi điểm trường Ha Cá được các nhà hảo tâm, mạnh thường quân hỗ trợ xây mới khang trang với 4 phòng học, 2 phòng công vụ, sân chơi, bếp ăn… trị giá 1,4 tỷ đồng. Điểm trường mới như ánh lửa thắp sáng niềm tin, gieo hy vọng cho trẻ em vùng cao.
![]() |
![]() |
Ở mảnh đất phía Tây, câu chuyện cô giáo bám điểm trường, dạy "song ngữ" trở thành biểu tượng chung của hình ảnh người giáo viên vùng cao. Đó là câu chuyện của cô giáo Hoàng Thị Vân, 37 tuổi, hơn 10 năm gắn bó với Trường Mầm non Nấm Dẩn. Cô Vân là người Tày, nhưng học trò lại chủ yếu là các em nhỏ dân tộc Nùng, Mông, chưa nói được tiếng phổ thông, cô và trò từng lạc lõng giữa hai miền ngôn ngữ. Từ những lần “dở khóc dở cười” ấy, cô Vân kiên nhẫn học thêm tiếng của đồng bào, để có thể giảng dạy bằng “song ngữ”, đưa con chữ gần hơn với các em.
![]() |
Những lớp học song ngữ: Cô học tiếng dân tộc, trò học tiếng phổ thông là đặc thù của giáo dục vùng cao |
Những con đường đèo dốc hiểm trở từng khiến cô bật khóc ngay ngày đầu đi dạy, nhưng rồi tình yêu thương dành cho học trò đã giúp cô vượt qua tất cả. Với những cống hiến của mình, năm 2023, Cô giáo Hoàng Thị Vân được Bộ trưởng Bộ GD&ĐT tặng Bằng khen. Cô Vân chia sẻ: “Chỉ cần học trò đi học đầy đủ đã là niềm vui lớn nhất rồi”.
![]() |
Cô giáo Hoàng Thị Vân được Bộ trưởng Bộ GD&ĐT tặng Bằng khen. |
Những năm qua, việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học vùng đồng bào dân tộc thiểu số tuy đã được triển khai sâu rộng, nhưng với những đứa trẻ nghèo nơi biên viễn, hàng ngày sống cùng bố mẹ mù chữ, tái mù chữa, chủ yếu giao tiếp bằng tiếng "mẹ đẻ" khiến việc dạy tiếng Việt gặp nhiều khó khăn. Vì thế, việc giáo viên học tiếng dân tộc để giao tiếp với học sinh, để giúp các em có thể tiếp cận con chữ là giải pháp hiệu quả được nhiều giáo viên lựa chọn.
![]() |
![]() |
![]() |
Cô Hoàng Thị Duyên, giáo viên trẻ ở điểm trường Thàn Chư, xã Sơn Vĩ quê tận xã Tát Ngà, cách điểm trường 50km, nên cô chọn ở luôn điểm trường để thuận lợi trong việc giảng dạy. Mỗi chuyến đi về điểm trường với cô là hành trình vượt dốc, có khi ngã xe, có khi phải xin củ sắn ăn thay cơm vì đường xa hết gạo; phải học tiếng Mông để dạy chữ cho trẻ em nghèo. Nhưng những khó khăn ấy cô dễ dàng vượt qua, chỉ có việc phải vượt đèo, vượt núi lên đầu nguồn lấy nước về sinh hoạt trong mùa khô là những tháng ngày khiến cô nhớ mãi. Cô Duyên nhớ lại: "Để có nước sinh hoạt, hằng ngày, bà con và giáo viên phải dậy từ 3-4 giờ sáng, đi bộ, leo núi vài ki-lô-mét về phía đầu nguồn để địu nước về sử dụng. Có hôm sức khỏe yếu, không thể đi lấy nước được, thì phải mất tiền mua nước, hoặc thuê người đi lấy, nước sạch là nỗi ám ảnh trong mùa khô nơi đây".
Ở điểm trường đã khó, ở trường bán trú, nội trú với hàng trăm học sinh, câu chuyện nước sạch mùa hạn càng trở nên xa xỉ.
![]() |
Cao nguyên đá Đồng Văn có tới 3/4 diện tích là núi đá vôi và đá tai mèo, diện tích rừng thưa thớt, mạch nước ngầm hiếm hoi, khả năng trữ nước trên núi đá kém... vào mùa khô, người dân phải sống trong tình trạng thiếu nước sinh hoạt và canh tác. Với khoảng cách từ điểm trường đến trung tâm xã xa, có nơi đến vài chục km nên nhiều thầy, cô giáo chọn ở lại điểm trường để thuận lợi trong việc dạy học, mỗi tuần chỉ xuống xã 1 lần để mua thực phẩm, nhu yếu phẩm cần thiết. Căn phòng công vụ của giáo viên cắm bản phần lớn cũng chỉ là căn phòng ván ghép, mùa đông gió lùa 4 bên.
![]() |
Giữa vùng cao nguyên đá, học sinh, người dân, cô giáo vất vả lấy từng can nước để sinh hoạt trong mùa khô. |
Ở vùng cao nguyên đá, những con đường đến trường còn vô cùng nguy hiểm. Ở xã Đường Thượng, đã 2 năm trôi qua nhưng đồng nghiệp, học trò và phụ huynh vẫn luôn nhớ về vợ chồng cô giáo Mai Thị Yến. Cô Yến công tác tại trường mầm non, còn chồng giảng dạy ở trường tiểu học. Suốt 13 năm bám bản, gieo chữ giữa đại ngàn, cô để lại cho các thế hệ học trò tình yêu thương tha thiết. Cũng giống như nhiều hoàn cảnh giáo viên vùng cao, vì điều kiện khó khăn, xa gia đình, con cái phải gửi về quê nhờ ông bà chăm sóc. Vợ chồng cô Yến có 2 người con, trong đó người con lớn được gửi về quê.
![]() |
Đường đến trường gập ghềnh chông gai, hiểm nguy thách thức những giáo viên cắm bản |
![]() |
Ngay sau sự việc đau lòng xảy ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Công đoàn ngành Giáo dục Việt Nam đã đến thăm hỏi, động viên gia đình, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tạo điều kiện để thầy Nam được chuyển công tác về một trường tiểu học tại quê nhà tỉnh Phú Thọ, nơi gia đình thầy đang sinh sống để phù hợp với sức khỏe, hoàn cảnh gia đình, thuận lợi chăm sóc hai con nhỏ.
![]() |
17 giờ 30 phút, tiếng chuông gọi cơm tối vang lảnh, hơn 500 học sinh tại Trường Nội trú THCS&THPT Mèo Vạc xếp hàng ngay ngắn, điểm danh trước khi vào nhà ăn. Bữa ăn tối nay có thịt kho, trứng, lạc rang, giò, bắp cải xào và canh rau. Mùi thơm từ phía nhà bếp tỏa ra hấp dẫn những học sinh đang tuổi lớn, sau buổi chiều học tập, chơi thể thao và chiếc bụng đã đói. Phần lớn gia đình các em có điều kiện khó khăn, không thể đủ chi phí cho con đến trường. Bởi vậy, được học tập trung trong môi trường nội trú an toàn, được thầy, cô lo cho từng bữa ăn, giấc ngủ đủ đầy là niềm hạnh phúc lớn với học sinh nghèo nơi đây.
![]() |
Môt bữa ăn tại Trường PTDT Bán trú Tiểu học Ma Lé, xã Lũng Cú |
![]() |
Thầy Nguyễn Trường Lâm, Hiệu trưởng Trường Nội trú THCS&THPT Mèo Vạc chia sẻ: Toàn bộ thực phẩm phục vụ bếp ăn tập thể của học sinh đều có nguồn gốc, thực đơn thay đổi theo ngày, đảm bảo chất lượng, dinh dưỡng. Bữa cơm chung mỗi ngày không chỉ nuôi dưỡng thể chất mà còn giữ các em ở lại trường. Nhiều học sinh ở xa, điều kiện khó khăn, nếu không có nội trú, bán trú, dễ dẫn đến nguy cơ bỏ học giữa chừng. Ở đây, phương châm của nhà trường là Rèn luyện thể chất - Trải nghiệm học tập thú vị - Nuôi dưỡng đam mê học hỏi - Tự chủ cuộc sống - Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc".
![]() |
Thầy Nguyễn Trường Lâm, Hiệu trưởng Trường Nội trú THCS&THPT Mèo Vạc kiểm tra bếp ăn tập thể |
Tại điểm trường tiểu học Kéo Hẻn, xã Mậu Duệ hiện có 105 học sinh từ lớp 1 đến lớp 5 theo học, 100% học sinh là đồng bào dân tộc thiểu số. Từ năm 2022, điểm trường được dự án "Cặp lá yêu thương - Em vui đến trường" hỗ trợ bữa ăn trưa, nhờ đó các em đi học đủ đầy hơn. Mỗi sáng, những bước chân nhỏ bé lại men theo triền núi, băng qua con đường nhỏ hơn 2km để kịp giờ đến lớp. Những ánh mắt trẻ thơ trong veo, rực niềm vui đến trường, niềm vui được ăn bữa trưa ngon miệng. Giữa những thiếu thốn bộn bề, bữa cơm trưa đủ đầy trở thành điểm neo giữ chân trò nhỏ, tiếp thêm niềm tin để các em tiếp bước đến tương lai, những ước mở trở thành bác sĩ, thầy giáo đang được gieo mầm từ sự yêu thương, chăm sóc của toàn xã hội.
Từ bữa cơm chung giản dị, đôi chân rớm máu trên dốc đá đến tiếng cười hồn nhiên của học trò, tất cả làm nên câu chuyện cảm động về hành trình gieo chữ nơi cực Bắc Tổ quốc. Trường lớp có thể tạm bợ, nhưng lòng người gieo chữ thì vững vàng, bền bỉ, để mỗi ngày, từng con chữ lại cất cánh vượt lên mây ngàn, bay về nơi ánh sáng.
Thực hiện: Chúc Huyền, Biện Luân, Thu Phương, Giang Lam, Nguyễn Luyến