Báo Tuyên Quang điện tử
.

Kỳ cuối: Những ngọn đèn soi lối

14:00, 04/09/2025

Trên những dãy núi đá trập trùng, nơi phên dậu thiêng liêng của Tổ quốc, hành trình đi tìm tri thức chưa bao giờ thôi chông chênh. Nhưng chính ở đó, những nghị quyết mới, những chính sách đột phá của Đảng và Nhà nước đang trở thành những ngọn đèn soi đường, thắp sáng ước mơ, không chỉ mở lối cho giáo dục vùng cao Tuyên Quang bắt kịp miền xuôi mà còn gieo niềm tin vững chắc cho tương lai.

 

Một lớp học xóa mù tại thôn Đoàn Kết, xã Hồ Thầu
Một lớp học xóa mù tại thôn Đoàn Kết, xã Hồ Thầu

Câu chuyện về xóa mù chữ nơi vùng biên không chỉ là những con số, mà là những thước phim sống động diễn ra hàng đêm. Khi đêm xuống, trên triền núi Ma Xí A (xã Lũng Cú), ánh đèn điện lại hắt ra từ một lớp học đặc biệt: lớp xóa mù chữ của những học trò "U50, U60". Họ là những người phụ nữ, người đàn ông đã quen với việc dùng sức lao động để mưu sinh, nhưng nay quyết tâm ngồi vào bàn để đánh vần từng con chữ. Trong tiếng gió ngàn hun hút, tiếng ê a đánh vần của học trò già, trẻ vang vọng cả khoảnh núi. Có chị địu con nhỏ, có người tóc đã bạc, nhưng tất cả cùng chung khát vọng: biết chữ để làm chủ cuộc đời.

Người đứng lớp là Thiếu tá Vàng Dỉ Khoán, cán bộ Đồn Biên phòng Lũng Cú – người con dân tộc Mông, am hiểu phong tục tập quán địa phương. Anh Khoán chia sẻ: Theo rà soát, toàn xã còn khoảng 300 người mù chữ, số người tái mù còn nhiều hơn. Trước thực trạng này, Đồn Biên phòng Lũng Cú phối hợp với trường học, chính quyền địa phương và công an mở 2 lớp xóa mù chữ. Bộ đội và các thầy cô thay phiên nhau đứng lớp, mỗi lớp học 3 – 4 buổi tối/tuần”.

                             Lớp học của thầy giáo quân hàm xanh Vàng Dỉ Khoán
Lớp học của thầy giáo quân hàm xanh Vàng Dỉ Khoán

Thực tiễn sinh động này được tiếp sức mạnh mẽ bởi chủ trương, chính sách đúng đắn. Ngày 5/1/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 29-CT/TW về phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc, xóa mù chữ cho người lớn. Chỉ thị đặt mục tiêu cốt lõi là hoàn thành xóa mù chữ cơ bản, tiến tới xóa mù chức năng, ưu tiên đặc biệt cho phụ nữ dân tộc thiểu số và lao động tái mù.

Cụ thể hóa chị thỉ của Bộ Chính trị, từ năm 2024 đến nay, tỉnh Tuyên Quang đã mở trên 100 lớp xóa mù chữ với gần 2.000 học viên. Các lớp học là sự phối hợp chặt chẽ giữa Sở Giáo dục và Đào tạo, Bộ đội Biên phòng, Hội Liên hiệp Phụ nữ, và Tỉnh đoàn. Điển hình, tại Sơn Vĩ, bộ đội biên phòng duy trì 10 lớp học xóa mù chữ ở các thôn biên giới. Chủ tịch UBND xã Sùng Mí Nô nhấn mạnh: "Bà con biết chữ sẽ nắm vững đường lối, làm ăn tiến bộ, trở thành những 'cột mốc sống' giữ vững biên cương Tổ quốc." Hay xã Hoàng Su Phì đã hoàn thành xóa mù chữ cho phụ nữ dưới 60 tuổi và thành lập các nhóm "con dạy mẹ, cháu dạy bà" để chủ động chống tái mù chữ.

Những lớp học xoá mù chữ giản dị, bền bỉ ấy đã trở thành "ngọn đèn soi lối" nơi biên cương, vừa thắp sáng tri thức, vừa bồi đắp sức dân, củng cố niềm tin và góp phần giữ vững từng tấc đất quê hương.

Sức mạnh thực sự của con chữ không nằm ở các con số thống kê, mà ở khả năng thay đổi cuộc đời của mỗi cá nhân. Tri thức đã trở thành vũ khí sắc bén giúp đồng bào vùng cao vượt qua đói nghèo và hủ tục. Mỗi người dân tự ý thức, tự nỗ lực để đi qua “màn sương mờ”, mở lối sáng cho cuộc đời mình.

Câu chuyện của chị Giàng Thị Dí ở thôn Tả Lèng, xã Minh Tân, là minh chứng sinh động. Trước đây, chị không biết đọc, biết viết, mọi kỹ thuật chăn nuôi đều dựa vào kinh nghiệm truyền lại từ ông bà. Bò nuôi chậm lớn do không biết phối trộn thức ăn, phòng bệnh.

Bước ngoặt đến khi chị quyết tâm học chữ. Khi đã đọc và viết được, chị bắt đầu tìm hiểu kỹ thuật chăn nuôi qua sách vở, tài liệu khuyến nông: phòng chống rét, dự trữ thức ăn, chọn giống bò tốt. Nhờ áp dụng đúng kỹ thuật, đàn bò phát triển khỏe mạnh, có lúc lên đến 10 con. Tổng thu nhập gia đình đạt trên 60 triệu đồng mỗi năm – con số mà trước đây chị chưa từng dám nghĩ đến. Gia đình chị không chỉ thoát nghèo mà còn có điều kiện cho con cái học hành.

Chị Giàng Thị Dí, thôn Tả Lèng, xã Minh Tân chăm sóc đàn bò cho thu nhập trên 60 triệu đồng.
Chị Giàng Thị Dí, thôn Tả Lèng, xã Minh Tân chăm sóc đàn bò cho thu nhập trên 60 triệu đồng.

Giữa bóng tối của định kiến và hủ tục tảo hôn, vẫn có những ngọn lửa ý chí bừng sáng tìm tri thức. Câu chuyện của Vàng Thị Dế, sinh năm 2002, xóm Nhèo Lủng, xã Đồng Văn, là một minh chứng điển hình. Dế từng hai lần đứng trước sức ép bỏ học để lấy chồng. Lần đầu là khi em vừa học xong lớp 9. Bố mẹ kiên quyết bắt em nghỉ học, chuẩn bị về nhà chồng. Nhưng Dế vẫn một mực từ chối, lặng lẽ tự vượt qua những dãy núi cao, ngày ngày tìm đến lớp. Sự phản kháng ấy không chỉ là để giữ lấy giấc mơ con chữ, mà còn là để bảo vệ quyền được lớn lên theo cách của mình. Lần thứ hai, khi học THPT, mẹ khuyên: "Học nhiều rồi cũng làm dâu thôi, học để làm gì!". Nhưng trái tim tuổi 17 của Dế không chịu khuất phục, em kiên định "bước qua hàng rào đá", giữ vững giấc mơ tri thức để vào Trường PTDT Nội trú tỉnh.

Từ cô gái từng bị cấm học, Dế tự gây dựng khả năng làm chủ kinh tế, trở thành cầu nối đưa văn hóa Mông đến bạn bè quốc tế. Hành trình của chị Dí và Vàng Thị Dế khẳng định: Tri thức là ánh sáng xua tan bóng tối hủ tục và mở ra cánh cửa tự lập, làm chủ tương lai.

Nếu xóa mù chữ là nền tảng, thì hệ thống trường nội trú, bán trú được coi là "cứu cánh" cho học sinh vùng khó, giúp các em được ăn, ở và học tập trong môi trường tập trung, giảm thiểu tình trạng bỏ học.

Tại các trường như PTDT Bán trú Tiểu học Ma Lé (xã Lũng Cú), mặc dù khó khăn về ngôn ngữ vẫn là rào cản nhưng nhà trường đã tìm cách vượt khó. Hiệu trưởng Phạm Trọng Tâm cho biết, nhà trường đã tổ chức các lớp học tiếng Việt cho trẻ trước khi vào lớp 1 để rèn đủ bốn kỹ năng nghe – nói – đọc – viết, từ đó giúp các em dễ dàng tiếp thu kiến thức. Đối với cơ sở vật chất, hiện nhà trường có 437 học sinh bán trú nhưng chỉ 8 phòng ngủ, mỗi phòng rộng 42 m² (tiêu chuẩn chỉ đủ cho 20 em). Tuy nhiên, trước mắt nhà trường bố trí cho 50 em/phòng để các em có chỗ ở ổn định, yên tâm học hành. Nhà trường cũng mượn nhà văn hoá thôn để làm bếp ăn cho học sinh.

 

Do chưa có bếp ăn, các em học sinh trường Ma Lé được bố trí ăn tại nhà văn hóa thôn.
Do chưa có bếp ăn, các em học sinh trường Ma Lé được bố trí ăn tại nhà văn hóa thôn.

Cùng với việc khắc phục khó khăn về cơ sở vật chất thì giải pháp thiếu giáo việc cũng đang được các nhà trường và mỗi giáo viên chủ động thực hiện. Câu chuyện của cô Lục Thị Hằng, giáo viên Tiếng Anh tại Trường Ma Lé, là minh chứng rõ nhất cho sự tận tụy và áp lực này. Cô phải dạy tới 48 tiết/tuần (gấp đôi định mức), cho 140 – 160 học sinh/tiết. Chưa hết, hàng ngày cô còn di chuyển quãng đường 12 km quanh co khúc khuỷu sang trường Tiểu học bán trú Lũng Cú dạy thêm 30 tiết/tuần. Chia sẻ về khó khăn này, cô Hằng mỉm cười: "Học sinh đông, áp lực lớn nhưng vì các em, mình vẫn phải cố gắng. Mỗi tiết học, mỗi ánh mắt trẻ thơ là động lực để tôi bước tiếp."

Mỗi ngày, cô Lục Thị Hằng vượt 12km, dạy 20 tiết/tuần cho 15 lớp học ở Ma Lé – Lũng Cú

Sự nỗ lực của ngành giáo dục, thầy cô đang mang đến những điểm sáng: Trường PTDT Nội trú THPT tỉnh giữ vững vị thế tốp đầu, với 100% học sinh lên lớp thẳng và tốt nghiệp, 29 học sinh đạt điểm 10 trong kỳ thi tốt nghiệp 2025, đứng thứ 3/92 trường toàn tỉnh. Tỉnh đã rà soát và chuẩn bị xây dựng 17 công trình trường nội trú liên cấp tại các xã biên giới. Đặc biệt, Dự án xây dựng Trường PTDT Nội trú liên cấp Tiểu học và THCS Thanh Thủy (xã biên giới) với tổng mức đầu tư hơn 211 tỷ đồng là bước đi đột phá. Dự án hoàn thành có cơ sở vật chất đồng bộ: 31 phòng học, 198 phòng ở cho học sinh và giáo viên, cùng nhà đa năng, bếp ăn. Ngôi trường dự kiến hoàn thành năm 2026, mở ra cơ hội học tập chất lượng cao với cơ sở vật chất đồng bộ và hiện đại.

Hệ thống bán trú, nội trú đang gánh trên vai cả kỳ vọng lẫn thách thức, và sự đầu tư này sẽ tạo cú hích, tháo gỡ điểm nghẽn cho giáo dục miền núi.

 Các đại biểu thực hiện nghi lễ động thổ xây dựng công trình Trường Phổ thông Nội trú liên cấp Tiểu học và THCS Thanh Thủy (ảnh trên); Phối cảnh trường Phổ thông Nội trú liên cấp Tiểu học và THCS Thanh Thủy (ảnh dưới).
Các đại biểu thực hiện nghi lễ động thổ xây dựng công trình Trường Phổ thông Nội trú liên cấp Tiểu học và THCS Thanh Thủy (ảnh trên); Phối cảnh trường Phổ thông Nội trú liên cấp Tiểu học và THCS Thanh Thủy (ảnh dưới).

Sau sáp nhập tỉnh, ngành Giáo dục Tuyên Quang mang trong mình một quy mô khổng lồ: 1.053 trường mầm non và phổ thông với 509.754 học sinh, cùng trên 32.000 cán bộ, giáo viên, nhân viên. Hệ thống này bao gồm 20 trường phổ thông dân tộc nội trú và 236 trường bán trú. Sự sáp nhập này mở ra cơ hội phát triển đồng bộ, nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với thách thức khi khoảng cách giáo dục là rất lớn. Tuyên Quang (cũ) thường đứng nhóm trung bình khá, trong khi Hà Giang (cũ) liên tục đứng cuối cả nước về điểm tốt nghiệp THPT (các năm 2020, 2023, 2024, 2025 đều xếp 63/63). Vì vậy, tỉnh đã có những giải pháp tổng thể trên cơ sở nhận định rõ những thành tựu cũng như thách thức; đặc biệt là tận dụng hiệu quả Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (Nghị quyết số 71-NQ/TW) để rút ngắn khoảng cách con chữ giữa vùng miền, đưa giáo dục Tuyên Quang bứt phá.

 

Để khắc phục những điểm nghẽn này, ngành Giáo dục Tuyên Quang đang tập trung vào các giải pháp toàn diện. Về quản lý và chính sách, ngành tham mưu ban hành nghị quyết thực hiện Nghị quyết 71, xây dựng đề án phát triển giáo dục đến 2030, tầm nhìn 2045. Chú trọng tuyển dụng công bằng, minh bạch, thực hiện đặt hàng đào tạo giáo viên cho các môn thiếu (Tiếng Anh, Tin học), và thu hút giáo viên giỏi về công tác tại các trường trọng điểm. Đẩy mạnh xây dựng Cụm chuyên môn liên trường để nâng cao chất lượng dạy học; hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non 3-5 tuổi; đưa tiếng Anh từng bước trở thành ngôn ngữ thứ hai. Tăng cường học sinh giỏi quốc gia và nâng cao thứ hạng thi tốt nghiệp THPT, hướng tới Top 25 tỉnh, thành phố.

Đặc biệt, ngành đang đi đầu trong việc ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số và AI: triển khai học bạ số, sổ điểm điện tử, và chuẩn bị lộ trình thi tốt nghiệp THPT trực tuyến từ năm 2027. Đây là những bước đi mạnh mẽ, cam kết đưa giáo dục Tuyên Quang bắt kịp xu thế thời đại.

Đặc biệt, sau khi sáp nhập tỉnh, vận hành chính quyền hai cấp, cán bộ quản lý giáo dục đưa về tuyến xã, phường nhằm tạo “cầu nối” quan trọng giữa chính quyền cơ sở và ngành giáo dục. Tuy nhiên, đằng sau sự rõ ràng về nhiệm vụ ấy, công tác sắp xếp cán bộ công chức phụ trách mảng giáo dục lại bộc lộ nhiều vấn đề. Nhiều xã, phường ghi nhận một số công chức giáo dục được bố trí chưa đúng chuyên ngành dẫn tới tình trạng lúng túng, quá tải. Theo số liệu khảo sát đầu tháng 8-2025 của Sở Giáo dục và Đào tạo, tại 124 xã, phường có 126 cán bộ, công chức phụ trách lĩnh vực giáo dục. Trong đó, 83 công chức có trình độ chuyên môn sư phạm và liên quan đến sư phạm, giáo dục; còn lại 43 công chức có trình độ chuyên môn các ngành học khác. Để giải bài toán đặt ra, bên cạnh việc bám sát chỉ đạo của Trung ương, ngành Giáo dục và Đào tỉnh cũng đang từng bước tháo gỡ nhằm đảm bảo người được giao nhiệm vụ phải thực sự “đúng người, đúng việc”.

Đồng chí Vũ Đình Hưng, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo khẳng định: “Chúng tôi xác định việc nâng cao năng lực cho cán bộ cơ sở là yếu tố then chốt. Thời gian tới, chúng tôi triển khai các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn sâu cho đội ngũ công chức các xã về công tác quản lý giáo dục. Đồng thời, tiến hành biệt phái cán bộ quản lý các trường hỗ trợ các xã phường còn thiếu cán bộ quản lý giáo dục; thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Sở Giáo dục và Đào tạo và UBND cấp xã để kịp thời hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ”.

Trao đổi thêm về vấn đề này, TS. Lục Quang Tấn
Giám đốc Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại Hà Giang khẳng định: Việc chuẩn hóa đội ngũ, nâng cao năng lực quản trị và đưa tiêu chuẩn chuyên môn vào tuyển dụng công chức phụ trách giáo dục cũng rất quan trọng. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai mô hình trường học thông minh, quản lý theo chuẩn ISO là xu hướng tất yếu.

Trước mắt, năm học 2025 – 2026, tỉnh tập trung nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, hoàn thiện cơ chế, chính sách, đổi mới công tác quản trị nhà trường, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, phát huy tính chủ động và sáng tạo của các địa phương, cơ sở giáo dục. Song song là việc đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học, từ mầm non, phổ thông đến giáo dục thường xuyên; đẩy mạnh giáo dục STEM/STEAM, ứng dụng công nghệ số, tăng cường dạy và học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, tiến tới chuẩn bị các điều kiện để đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.

Bên cạnh việc nâng cao chất lượng, chú trọng bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục, thông qua ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, hỗ trợ học sinh vùng khó khăn, vùng biên giới; triển khai chương trình xóa mù chữ, dạy tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số; phát triển giáo dục hòa nhập cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Cùng với đó, công tác phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý được coi là then chốt, nhằm khắc phục tình trạng thiếu giáo viên, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao tại các địa bàn khó khăn; đồng thời chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để triển khai Luật Nhà giáo từ năm 2026.

Những ngọn đèn soi lối nơi biên cương vẫn đang kiên nhẫn thắp sáng. Từ những lớp xóa mù chữ đơn sơ đến những ngôi trường nội trú được đầu tư quy mô lớn, tất cả đều chung một mục tiêu: dùng con chữ để bồi đắp tri thức, phát triển nguồn nhân lực toàn diện, đáp ứng kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Với sức mạnh nội lực từ sự tận tụy của giáo viên và nỗ lực phi thường của học sinh, kỷ nguyên mới cho sự nghiệp "trồng người" đã mở ra, hứa hẹn một tương lai tươi sáng và vững chắc hơn cho vùng đất phên dậu Tổ quốc.

Thực hiện: Chúc Huyền, Biện Luân, Thu Phương, Giang Lam, Nguyễn Luyến


Ý kiến bạn đọc


Đọc tiếp