Báo Tuyên Quang điện tử
.

Kỳ cuối: Giữ kho báu ngàn năm - Nối mạch nguồn dân tộc

13:24, 19/07/2025
 
 
 
 

Tuyên Quang tự hào mang trong mình một bức tranh văn hóa đa sắc màu tươi đẹp và vô cùng phong phú. Thế nhưng, giữa dòng chảy của cuộc sống hiện đại, mạch nguồn di sản ấy đang đứng trước nguy cơ mai một. Đã đến lúc, chúng ta cần những chính sách, giải pháp và cơ chế xứng tầm để giữ gìn kho báu ngàn năm, nối mạch nguồn văn hóa chảy mãi, định hình một xứ Tuyên bản sắc, sống động và trường tồn.

 
 

Năm 2003, xã Hồ Thầu xây dựng thí điểm mô hình Hội nghệ nhân dân gian, gồm 46 hội viên. Đây là mô hình tổ chức hội tự nguyện của các nghệ nhân được cấp ủy, chính quyền địa phương đề xuất, vận động thành lập nhằm quy tụ các nghệ nhân, những người có uy tín trong cộng đồng, thầy mo, thầy tạo. Mô hình đánh dấu bước khởi đầu trong phát hiện, sử dụng vai trò của các nghệ nhân với việc lưu trữ, bảo tồn nét đẹp văn hoá dân tộc, dạy nghề truyền thống, bài trừ hủ tục lạc hậu, tạo sự đoàn kết giữa các dân tộc.

Các nghệ nhân dân gian xã Mèo Vạc thực hiện nghi thức cúng trong Lễ Gầu Tào.
Các nghệ nhân dân gian xã Mèo Vạc thực hiện nghi thức cúng trong Lễ Gầu Tào.
Lễ hội Chợ tình Khâu Vai và Lễ hội Lồng tồng của người Tày được khôi phục và phát huy giá trị văn hóa.
Lễ hội Chợ tình Khâu Vai và Lễ hội Lồng tồng của người Tày được khôi phục và phát huy giá trị văn hóa.

Gấp gọn những cuốn sách cổ quý mà mình tự tay sưu tầm, nghiên cứu, chép lại về lễ nghi, tín ngưỡng, chữ viết, phong tục của người Dao đỏ trong suốt hơn 30 năm nay, nghệ nhân ưu tú Triệu Chòi Hín, thôn Tân Phong, hội viên Hội nghệ nhân dân gian xã Hồ Thầu lại khoác chiếc tay nải cũ, men theo lối mòn vắt ngược lên triền núi đi làm đám tang cho một người trong bản vừa quá cố.

Ông Hín kể: "Đám tang của người Dao đỏ trước đây cũng nhiều nghi lễ, trong đó có những nghi lễ kéo dài, tốn kém. Hội nghệ nhân dân gian của xã đã họp bàn nhiều lần, nhận diện cái nào là văn hóa truyền thống thì giữ lại, những lễ nghi nào rườm rà, không cần thiết thì cắt bỏ, người chết không được để quá 48 tiếng". Lời của nghệ nhân, người có uy tín, đồng thời cũng là thầy cúng của bản có giá trị như lời vọng của núi, của rừng già, cả bản đều nghe theo.

Sau thành công ở Hồ Thầu, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành đề án, kế hoạch nhân rộng mô hình hội nghệ nhân dân gian trên phạm vi toàn tỉnh. Nếu như năm 2003 toàn tỉnh chỉ có 1 Hội nghệ nhân dân gian thì nay số lượng này đã lên đến gần 200 Hội nghệ nhân dân gian với hơn 9.000 hội viên.

Trong đó trên 3.500 nghệ nhân hoạt động ở lĩnh vực tín ngưỡng dân gian; hơn 3.300 nghệ nhân thuộc lĩnh vực phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và trên 2.200 hội viên hoạt động ở lĩnh vực truyền dạy và làm nghề truyền thống. Đây là lực lượng nòng cốt tham mưu, đề xuất và trực tiếp tham gia bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống.

Hội nghệ nhân dân gian các xãhoạt động ở 3 lĩnh vực gồm: Tín ngưỡng dân gian, phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và truyền dạy nghề truyền thống.

Hàng năm, các hội tổ chức nhiều lớp truyền dạy dân ca, dân vũ, nhạc cụ, nghi lễ, nghề truyền thống. Chỉ tính từ năm 2016 đến nay, toàn tỉnh có trên 40 làng nghề truyền thống được công nhận với hàng nghìn nghệ nhân am hiểu, nắm giữ bí quyết nghề. Có 1.156 nghệ nhân tham gia truyền dạy văn hóa truyền thống trong trường học với hơn 5.100 chuyên đề, 46.400 tiết học.

Trong xây dựng nếp sống mới, các hội viên đã vận động động trên 500 trường hợp đám tang người dân tộc Mông đưa người chết vào áo quan. Đặc biệt, hội nghệ nhân dân gian có công lớn trong việc phối hợp với cơ quan chức năng tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc Mông trên Cao nguyên đá xóa bỏ tà đạo “San sư khẻ tọ” để quay lại với phong tục truyền thống, góp phần giữ gìn văn hóa và đảm bảo an ninh trật tự tại địa phương.

Để hội nghệ nhân dân gian hoạt động hiệu quả, HĐND tỉnh (Hà Giang cũ) đã ban hành Nghị quyết số 56/2021/NQ-HĐND Quy định các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách địa phương năm 2022, trong đó hỗ trợ hoạt động của Hội nghệ nhân dân gian 10 triệu đồng/hội/năm. Đây là nguồn động lực quan trọng để khích lệ các nghệ nhân tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

Việc thành lập Hội nghệ nhân dân gian đã đưa Tuyên Quang trở thành địa phương duy nhất của cả nước thực hiện mô hình độc đáo này. Đây cũng là bước ngoặt quan trọng ghi dấu mốc quan trọng trong việc phát hiện, phát huy vai trò của các nghệ nhân dân gian trong việc bảo tồn gìn giữ phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc trên địa bàn tỉnh.

 
 

Dân tộc Pà Thẻn sinh sống tại xã Tân Trịnh, Tân Quang, Minh Quang, Tri Phú là dân tộc rất ít người, có khó khăn đặc thù nhưng lại có kho tàng văn hóa truyền thống vô cùng độc đáo và kỳ bí như: Lễ hội nhảy lửa, lễ kéo chày, lễ cầu mùa, nghề dệt vải. Giống nhiều dân tộc thiểu số khác, dân tộc Pà Thẻn cũng đứng trước nguy cơ mai một văn hóa khi số nghệ nhân nắm giữ hồn cốt dân tộc ngày càng ít đi.

Năm 2022, tin vui đến với cộng đồng người Pà Thẻn khi nội dung khôi phục, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số có dân số ít người thuộc Dự án 6 “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch” trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (Dự án 6) được triển khai tại đây.

Các hoạt động phục dựng lễ hội, khảo sát, sưu tầm, kiểm kê nghi lễ dân gian, tri thức bản địa, lập hồ sơ di sản, phục hồi nghề truyền thống... đã mang lại những kết quả tích cực. Đã có 9 lớp dạy tiếng dân tộc Pà Thẻn, 6 lớp học nghi lễ cúng nhảy lửa, 8 lớp truyền dạy văn hóa hát giao duyên được tổ chức.

Văn hóa dân tộc Pà Thẻn được hồi sinh từ Dự án 6.

Tháng 2-2024, Lễ cầu mùa của người Pà Thẻn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Nghệ nhân Nhân dân Sìn Văn Phong cho biết: "Với sự quan tâm, hỗ trợ, đầu tư của Đảng, Nhà nước, công tác bảo tồn văn hóa dân tộc Pà Thẻn đang nhen lên những đốm lửa hồng, góp phần hồi sinh nền văn hóa dân tộc rất ít người trước nguy cơ mai một".

Dự án 6 với trọng tâm là khôi phục, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống, được triển khai sâu rộng trên địa bàn tỉnh với 19 nội dung cụ thể đã tạo chuyển biến sâu rộng trong đời sống văn hóa cộng đồng, đặc biệt đối với việc khôi phục, gìn giữ bảo tồn văn hoá dân tộc thiểu số.

Giai đoạn 2021 - 2025, tổng nguồn vốn thực hiện Dự án 6 đạt hơn 224 tỷ đồng, trong đó tỉnh dành nguồn lực đáng kể đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số; bảo tồn 7 lễ hội truyền thống, tổ chức 19 lớp tập huấn truyền dạy văn hóa, nghiên cứu và phục hồi 3 loại hình văn hóa có nguy cơ mai một.

Trao truyền di sản văn hóa bằng sự tâm huyết và trách nhiệm.

Cùng với đó, Dự án 6 còn hướng đến kết nối văn hóa với phát triển du lịch cộng đồng, biến nghệ nhân thành người dẫn dắt hành trình trải nghiệm văn hóa cho du khách. Một số sản phẩm do nghệ nhân làm ra như khèn Mông, vải lanh thổ cẩm, nhạc cụ truyền thống... được đưa vào chuỗi sản phẩm OCOP. Những hoạt động này trao cơ hội để các nghệ nhân dân gian vừa phát huy vai trò truyền dạy, trình diễn, sáng tạo; vừa có thêm thu nhập, ổn định cuộc sống.

 

 

 
 

Những trang sách cổ bị đốt, lời hát ru không người ghi lại, lễ hội dần thưa vắng… đều là “báo động đỏ” về sự mai một của di sản. Trong kỷ nguyên số, khi mọi giá trị đều có thể được lưu giữ và lan tỏa bằng công nghệ hiện đại, thì không có lý do gì để những mất mát ấy tiếp diễn. Số hóa di sản từ việc thu âm, ghi hình, biên mục sách cổ, phục dựng chữ viết, đăng tải trên nền tảng xã hội không còn là lựa chọn mà là yêu cầu cấp thiết để “hồi sinh” văn hóa trên nền tảng số, để di sản hiện diện sống động trong đời sống hôm nay.

Ứng dụng công nghệ hiện đại tại bảo tàng tỉnh giúp giá trị văn hóa sống động hơn.
Ứng dụng công nghệ hiện đại tại bảo tàng tỉnh giúp giá trị văn hóa sống động hơn.

Tháng 12-2021, Chính phủ ban hành Quyết định 2026/QĐ-TTg về Phê duyệt Chương trình số hóa di sản Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030. Quyết định đề ra mục tiêu: 100% các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu được UNESCO ghi danh; các di tích quốc gia đặc biệt; các bảo vật quốc gia... phải được số hóa và ứng dụng trên các nền tảng số.

Ngoài ra, 100% người làm công tác chuyên môn trong ngành Di sản văn hóa được đào tạo, đào tạo lại, cập nhật kiến thức, kỹ năng chuyển đổi số. Để đạt mục tiêu đề ra, hành trình số hóa di tích, di sản đã và đang được thực hiện trên toàn quốc với sự khẩn trương và quyết liệt, trong đó Tuyên Quang cũng có nhiều cách làm sáng tạo.

Nhiều người trẻ yêu văn hóa dân tộc mình đã chủ động đưa văn hóa lên nền tảng số và mang lại hiệu ứng tích cực; như trường hợp của nhóm bạn trẻ: nghệ nhân trẻ Chu Văn Thạch tích cực truyền dạy hát Then, đàn Tính thông qua hai kênh YouTube “Đan tinh Chu Thach” và “Chu Thach Official”; nghệ sỹ Ngô Sỹ Ngọc, nghệ danh A Páo lan tỏa vẻ đẹp của Cao nguyên đá Đồng Văn với hơn 3.000 video ca nhạc trên kênh youtube của mình thu hút hàng triệu lượt theo dõi…

Di sản văn hóa được số hóa dễ dàng tiếp cận với thế hệ trẻ;

Trưởng thôn Lô Lô Chải, xã Lũng Cú Sình Dỉ Gai đưa văn hóa truyền thống dân tộc Lô Lô lên nền tảng mạng xã hội.
Di sản văn hóa được số hóa dễ dàng tiếp cận với thế hệ trẻ; Trưởng thôn Lô Lô Chải, xã Lũng Cú Sình Dỉ Gai đưa văn hóa truyền thống dân tộc Lô Lô lên nền tảng mạng xã hội.

Tại bảo tàng tỉnh, công nghệ hiện đại giúp quá trình lưu trữ, trưng bày hiện vật, văn hóa dân tộc trở nên độc đáo, đa chiều với phòng chiếu 3D Mapping.  Ở đó, di sản được thể hiện sinh động qua nhiều hình thức như: không gian màn hình cong và Panorama, những bức tranh chuyển động quy mô lớn, hàng loạt màn hình cảm ứng hiện đại, đóng vai trò như những cánh cổng tri thức mở rộng, lưu giữ văn hóa xuyên thời gian.

Những cuốn sách cổ, báu vật văn hóa tộc người cũng được số hóa giúp người xem khám phá đầy đủ, sinh động hơn, đồng thời khắc phục nỗi lo sách cổ, báu vật văn hóa bị hư hỏng, thất truyền. Nhận thức rõ giá trị của chuyển đổi số, từ năm 2021 đến nay, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đưa vào vận hành Hệ thống phần mềm quản lý di sản văn hóa tỉnh Tuyên Quang.

Đây không chỉ là một kho lưu trữ số mà còn là một công cụ quản lý khoa học, hiện đại, giúp kết nối hiệu quả giữa bảo tồn và khai thác giá trị di sản. Đến nay, 10 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đã được số hóa trên tổng số 425 di sản văn hóa phi vật thể. Ngành tiếp tục lập hồ sơ khoa học, tiến hành số hóa toàn bộ di sản văn hóa phi vật thể để từng bước đưa tất cả vào hệ thống quản lý chung.

 

Liến sĩ Trần Hữu Sơn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Ứng dụng Văn hóa và Du lịch, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam chia sẻ: "Thiết nghĩ, các bộ, ngành và tỉnh cần thiết lập trung tâm dữ liệu di sản văn hóa số quốc gia, tích hợp vào hệ thống dữ liệu của tỉnh để thuận lợi trong nghiên cứu, tra cứu và khai thác; đào tạo nguồn nhân lực số; ban hành quy định pháp lý rõ ràng về bản quyền, sử dụng, chia sẻ dữ liệu số hóa di sản. Và đặc biệt hơn, tiếp tục đầu tư kinh phí sưu tầm, tổng hợp, số hóa các sản phẩm mà các nghệ nhân đã dày công nghiên cứu về tiếng nói, chữ viết, làn điệu dân ca, dân vũ... để di sản họ để lại mãi mãi tồn tại trong dòng chảy thời gian”.

 

Từ ngày 1/7/2025, Luật Di sản văn hóa số 45/2024/QH15 có hiệu lực thi hành. Luật Di sản văn hóa với các quy định liên quan đến việc chuyển đổi số, số hóa di sản văn hóa và phát huy giá trị di sản văn hóa trên môi trường điện tử, chính sách đối với nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa phi vật thể. Đây được xem là "tấm áo pháp lý" quan trọng đối với những người làm công tác quản lý, thực hành và bảo vệ di sản, bởi những điểm mới của Luật góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện thực hiện tốt hơn công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Gặp gỡ, tôn vinh những nghệ nhân, người có uy tín trong cộng đồng.
Gặp gỡ, tôn vinh những nghệ nhân, người có uy tín trong cộng đồng.

Hiện nay, toàn tỉnh có hơn 3.000 người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, am hiểu, tâm huyết với việc bảo tồn, gìn giữ văn hoá dân gian, trong đó có 2 Nghệ nhân Nhân dân, 33 Nghệ nhân Ưu tú và 35 Nghệ nhân dân gian. Luật Di sản văn hóa là văn bản pháp lý quan trọng để nghệ nhân được hưởng chế độ, chính sách tương xứng, giúp họ bảo đảm cuộc sống, yên tâm cống hiến cho cộng đồng.

Để Luật Di sản văn hóa sớm đi vào cuộc sống, bà Nguyễn Thị Hoài, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch nhấn mạnh: "Các cấp, ngành cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Đồng thời, rà soát, bổ sung, điều chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong triển khai thực tế. Bên cạnh đó, xây dựng quy chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành đảm bảo việc thực hiện luật một cách đồng bộ”.

Nghệ nhân ưu tú Vàng Thị Mai, xã Lùng Tám đưa sản phẩm dệt lanh của đồng bào Mông ra thế giới; Nghệ nhân Ly Xín Cấu (bên trái), xã Đồng Văn dạy nghề làm chậu gỗ của người Mông.
Nghệ nhân ưu tú Vàng Thị Mai, xã Lùng Tám đưa sản phẩm dệt lanh của đồng bào Mông ra thế giới; Nghệ nhân Ly Xín Cấu (bên trái), xã Đồng Văn dạy nghề làm chậu gỗ của người Mông.

 

 

Trên vùng cao nguyên đá Đồng Văn hùng vĩ, nơi cột cờ Lũng Cú sừng sững giữa trời mây, cộng đồng dân tộc Lô Lô dù thuộc nhóm dân tộc có dân số dưới 10.000 người ở Việt Nam nhưng lại sở hữu một kho tàng phong tục, tín ngưỡng và văn hóa dân gian độc đáo, đặc biệt là hệ thống nghi lễ gắn liền với vòng đời và mùa vụ.

Trong đó, Lễ rửa làng (Lổng Dzìn) được coi là nghi lễ quan trọng nhất, diễn ra vào dịp Tết Thanh minh. Thế nhưng, từ những năm 1980, Lễ rửa làng gần như mai một, nhiều nghi thức bị lãng quên, ít ai còn biết trọn vẹn quy trình, lời khấn, nhạc cụ, điệu múa đi kèm.Để mạch nguồn di sản không bị đứt gãy, năm 2024, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam phối hợp chính quyền địa phương triển khai dự án phục dựng và bảo tồn nghi lễ này.

Trưởng thôn Lô Lô Chải Sình Dỉ Gai chia sẻ: "Các nghệ nhân lớn tuổi tỉ mỉ hướng dẫn thế hệ trẻ từng bước: từ khâu chuẩn bị lễ vật, cách dựng bàn thờ, thổi khèn, đánh trống đồng, cho tới những động tác múa và lời khấn cổ. Khi chính người dân hiểu rõ ý nghĩa của Lễ rửa làng, họ sẽ có động lực gìn giữ và truyền lại cho con cháu".

Lễ rửa làng của người Lô Lô, xã Lũng Cú
Lễ rửa làng của người Lô Lô, xã Lũng Cú

Không chỉ người Lô Lô, nhiều cộng đồng các dân tộc thiểu số trong tỉnh cũng gìn giữ bản sắc thông qua việc thành lập các câu lạc bộ, lớp học truyền dạy nghệ thuật dân gian. Hiện nay tất cả 124 xã, phường trong tỉnh đều có đội văn nghệ, hơn 500 câu lạc bộ bảo tồn văn hóa truyền thống. Điểm đặc biệt là các câu lạc bộ này được thành lập trên tinh thần tự nguyện, thu hút mọi lứa tuổi, từ các em nhỏ đến những cụ cao niên.

Nghệ nhân Ưu tú Lục Văn Bảy, Chủ nhiệm CLB Soọng cô xã Sơn Thủy chia sẻ với niềm tự hào: "CLB có hơn 200 thành viên, thành viên nhỏ tuổi nhất mới chỉ 6 tuổi. Chúng tôi bắt đầu bằng việc dạy các cháu nói tiếng Sán Dìu, sau đó mới dạy hát. Cứ như vậy, tiếng nói và văn hóa dân tộc được truyền lại một cách tự nhiên, nhẹ nhàng”.

Ở một không gian văn hóa khác, ông Nguyễn Văn Chự (phường Hà Giang 1) biến ngôi nhà sàn của mình thành lớp học hát Then, đàn Tính hoàn toàn miễn phí. Từ năm 2013 đến nay, lớp học thu hút 30–60 học viên mỗi năm, không phân biệt tuổi tác, chỉ cần mang trong tim tình yêu hát Then, đàn Tính và khát vọng gìn giữ hồn văn hóa Tày.

Hoạt động truyền dạy văn hóa truyền thống thông qua mô hình câu lạc bộ được nhân rộng ở nhiều địa phương
Hoạt động truyền dạy văn hóa truyền thống thông qua mô hình câu lạc bộ được nhân rộng ở nhiều địa phương

Song hành với việc thành lập các câu lạc bộ, tổ nhóm gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc là hoạt động gìn giữ nếp nhà truyền thống. Thôn Tha (phường Hà Giang 1) – nơi hơn 99% cư dân là đồng bào Tày vẫn lưu giữ gần như nguyên vẹn những nếp nhà sàn, mái lá cọ truyền thống. Nhằm bảo tồn kiến trúc đặc trưng này, UBND phường Hà Giang 1 đã triển khai Đề án xây dựng Làng văn hóa du lịch tiêu biểu thôn Tha giai đoạn 2021–2025 với chính sách hỗ trợ mỗi hộ 10 triệu đồng để lợp mái lá cọ thay vì “fibro xi măng hóa”.

Đến nay, đã có 24 hộ được hỗ trợ tổng số tiền 240 triệu đồng để lợp mái lá cọ truyền thống.Còn trên vùng Cao nguyên đã Đồng Văn, nơi có gần 80% đồng bào Mông sinh sống, hiện có 2 làng văn hóa du lịch cộng đồng, 1 khu nghỉ dưỡng đậm chất dân tộc Mông. Toàn bộ nhà ở tại đây đều tuân theo kiến trúc nhà trình tường truyền thống.

Đặc biệt Khu nghỉ dưỡng H’Mong Village (xã Lùng Tám) còn xây dựng các bungalow mô phỏng quẩy tấu của người Mông và các căn nhà cổ của các dòng họ. Lấy văn hóa để phát triển du lịch và phát triển du lịch để bảo tồn văn hóa không chỉ giúp du khách “thấy” mà còn được “chạm” vào văn hóa bản địa, từ đó lan tỏa giá trị di sản đến cộng đồng.

Những ngôi nhà hình quẩy tấu độc đáo ở Khu nghỉ dưỡng H’Mong Village.
Những ngôi nhà hình quẩy tấu độc đáo ở Khu nghỉ dưỡng H’Mong Village.

Tuyên Quang đã và đang triển khai nhiều giải pháp toàn diện, thiết thực nhằm bảo tồn, phát huy di sản văn hóa sống động của cộng đồng các dân tộc thiểu số trên địa bàn. Những nỗ lực này không chỉ góp phần khẳng định vị thế của các dân tộc thiểu số trong bức tranh đại đoàn kết của 54 dân tộc Việt Nam, mà còn từng bước hình thành "sức mạnh mềm" mang bản sắc Tuyên Quang – nơi văn hoá thấm sâu vào đời sống, bén rễ từ bản làng đến đô thị, lan toả giá trị ra khu vực và thế giới.

 

Thực hiện: Hoàng Bách - Hoàng Anh- Giang Lam- Biện Luân – Thu Phương – Bích Ngọc

Kỳ 1: Mở kho báu các dân tộc Tuyên Quang

Kỳ 2: Truyền lửa di sản 

Kỳ 3: Khoảng lặng sau bản hòa âm rực rỡ


Ý kiến bạn đọc


Đọc tiếp