Kỳ 1: Mở kho báu các dân tộc Tuyên Quang
Chạm vào Tuyên Quang không chỉ là chạm vào đất, vào người, mà là chạm vào một kho báu văn hóa đang sống, đang thở và đang thì thầm những thanh âm ngàn năm của 46 dân tộc. Ở nơi ấy, tiếng Then chưa từng tắt, tiếng khèn Mông vẫn cất lời gọi bạn tình trên triền đá, váy Lô Lô nở hoa rực rỡ giữa mây ngàn. Từng nghi lễ kỳ bí, từng di sản độc đáo của những tộc người “hiếm như vàng” nơi địa đầu Tổ quốc chính là mạch nguồn bền bỉ góp phần nuôi dưỡng hồn cốt dân tộc Việt Nam. |
![]() |
Từ đỉnh Cột cờ Quốc gia Lũng Cú – nơi đặt nét bút đầu tiên trên bản đồ hình chữ S – đến Tân Trào – nơi vang lên những mệnh lệnh lịch sử của Cách mạng Việt Nam, đó là một hành trình đặc biệt. Đây không chỉ là hành trình lịch sử của dân tộc mà còn là hành trình gắn kết những tầng sâu văn hóa – nơi đồng bào dân tộc thiểu số giữ gìn những mảnh ghép quý báu trong kho tàng văn hóa dân tộc.
|
||
Đồng bào Lô Lô xã Lũng Cú nơi địa đầu Tổ quốc. |
![]() |
Tiếng Then vang vọng ở vùng đất Tân Trào – nơi 80 năm trước Trung ương Đảng, Bác Hồ lựa chọn là trung tâm Khu giải phóng. |
Sau sáp nhập, Tuyên Quang trở thành vùng đất hội tụ đông đảo các dân tộc thiểu số trong cả nước với 46 dân tộc cùng sinh sống. Toàn tỉnh có quy mô dân số hơn 1,8 triệu người, trong đó gần 70% là đồng bào dân tộc thiểu số. Đây không chỉ là con số thống kê khô cứng mà còn phản ánh sự phong phú về văn hóa của các dân tộc cùng hội tụ trên mảnh đất này.
![]() |
Trên địa bàn tỉnh có gần 400 di sản văn hóa của các dân tộc, trong đó có 40 di sản văn hóa được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Có nhiều di sản của các dân tộc có số dân dưới 10.000 người như Bố Y, Pu Péo, Cờ Lao, Lô Lô, La Chí… Cùng với các tỉnh có di sản Then, thực hành Then của Tuyên Quang được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Tuyên Quang sở hữu gần 100 lễ hội truyền thống. Nhiều lễ hội được nghiên cứu, phục dựng và tổ chức quy mô, bài bản và được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia như: Lễ hội Lồng tông của đồng bào Tày; lễ nhảy lửa của người Pà Thẻn, người Dao; lễ Đại phan của người Sán Dìu; lễ cầu mưa dân tộc Lô Lô; lễ cúng rừng của người Nùng; lễ hội Gầu Tào dân tộc Mông; lễ cầu an của người Giáy… Nhiều điểm du lịch gắn với văn hóa bản địa đã trở thành thương hiệu của Tuyên Quang như: Chợ tình Khâu Vai, làng cổ tích Lô Lô Chải, Dinh thự họ Vương…
![]() |
Ngày hội văn hóa dân tộc Lô Lô. |
![]() |
Mỗi dân tộc có kho tàng văn nghệ dân gian độc đáo như: Dân tộc Tày có điệu hát Quan Làng, hát Cọi, hát Then. Dân tộc Cao Lan có điệu hát Sình Ca. Dân tộc Sán Dìu có điệu hát Soọng cô. Dân tộc Mông có điệu hát Mồ côi, tiếng hát làm dâu, múa Khèn… Cùng với đó là những bộ nhạc cụ độc đáo như đàn Tính của dân tộc Tày; khèn, kèn lá, sáo trúc của dân tộc Mông; bộ gõ của dân tộc Dao; trống Tang sành của dân tộc Cao Lan...
![]() |
Đồng bào Tày lưu giữ điệu Múa bát truyền thống độc đáo |
![]() |
Tuyên Quang còn là tỉnh duy nhất của cả nước hội tụ đủ 9 ngành Dao. Mỗi ngành mang một sắc thái văn hóa riêng biệt, từ trang phục, chữ viết, hệ thống lễ nghi, đến tri thức dân gian, nghề thủ công truyền thống.
Hiện nay, so với các dân tộc trong tỉnh, đồng bào Dao có nhiều Di sản được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia, với 8 di sản gồm: Lễ cấp sắc; nghệ thuật hát Páo Dung; kỹ thuật làm giấy bản; nghệ trang trang trí trên trang phục truyền thống, lễ cúng Bàn Vương, lễ nhảy lửa, lễ cầu mùa, cầu mưa và lễ hội Quỹa Hiéng (Lễ hội qua năm) của người Dao đỏ.
![]() |
Tuyên Quang là tỉnh duy nhất của cả nước hội tụ đủ 9 ngành Dao. Trong ảnh: Đám cưới truyền thống của người Dao đỏ được bảo tồn trong cộng đồng. |
![]() |
Nét độc đáo bậc nhất trong đời sống văn hóa vùng đất Tuyên Quang chính là kho tàng các nghi lễ tâm linh, tín ngưỡng vừa cổ xưa, vừa huyền bí, phản ánh sâu sắc thế giới quan, nhân sinh quan của đồng bào như Nghi lễ Nhảy lửa của người Pà Thẻn, Lễ cấp sắc của người Dao, Thực hành Then của người Tày…
Nghi lễ Nhảy lửa là một trong những nghi lễ kỳ lạ trên thế giới của người Pà Thẻn. Lễ nhảy lửa thường được tổ chức vào dịp cuối năm, khi mùa màng đã thu hoạch xong, là thời khắc người Pà Thẻn “mở cánh cửa vô hình” kết nối với thế giới thần linh. Sau những nghi lễ cầu khấn nhập hồn, người nhảy rơi vào trạng thái xuất thần, mặt đỏ rực, thân thể run bần bật. Họ bắt đầu nhảy vào đống than hồng đỏ rực với đôi chân trần mà không hề bị bỏng hay đau đớn.
![]() |
Kỳ bí nghi lễ Nhảy lửa của đồng bào Pà Thẻn. |
Điều kỳ bí hơn nữa là khả năng “xuất thần tập thể” trong lễ nhảy lửa, khi có đến 6-10 người cùng lúc bước vào trạng thái khác thường, hành vi đồng bộ như được điều khiển bởi một lực vô hình. Đó là minh chứng sống động cho sức mạnh cộng cảm, cho mối liên kết sâu sắc giữa cộng đồng và vũ trụ trong tín ngưỡng của người Pà Thẻn.
Lễ Nhảy lửa của người Pà Thẻn ở Tuyên Quang đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia và đang được đề xuất UNESCO ghi danh vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nghi lễ Then của người Tày nơi đây, không chỉ là một thực hành tín ngưỡng dân gian, mà còn là một hành trình tâm linh huyền bí – nơi con người vượt qua những tầng trời để đối thoại với thần linh. Trong nghi lễ Then, thầy Then đóng vai trò như một "sứ giả" của cộng đồng. Bằng những khúc hát cổ, nhạc cụ truyền thống như đàn tính, chuông, thanh la, ông dẫn dắt linh hồn con người băng qua 9 tầng trời, 12 cửa phủ, vượt sông vượt núi, băng rừng vượt suối, đến với thế giới siêu nhiên để cầu an, giải hạn, chữa bệnh, tạ ơn tổ tiên, hoặc cầu mùa màng.
![]() |
Thực hành Then của đồng bào Tày được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. |
Điều kỳ bí là toàn bộ hành trình siêu hình ấy được kể lại bằng những khúc hát Then cổ dài hàng giờ, được ghi nhớ hoàn toàn bằng trí nhớ, truyền khẩu từ đời này sang đời khác. Không cần sân khấu, ánh đèn, nhưng mỗi nghi lễ Then là một màn trình diễn tâm linh sống động, vừa mê hoặc, vừa trầm mặc.
Không gian thực hành nghi lễ Then thường được bài trí đơn sơ, nhưng đậm chất linh thiêng: bàn thờ tổ tiên, cây vải thần (còn gọi là "cây vạn linh"), tượng trưng cho các tầng trời; mâm lễ vật mang tính biểu tượng. Mỗi động tác của thầy Then – từ vung quạt, rung chuông, đến thay áo – đều mang những lớp nghĩa văn hóa và tâm linh sâu sắc.
![]() |
Lễ Cấp sắc của người Dao là một nghi lễ trưởng thành mang tính “khai sinh” tâm linh. Người Dao tin rằng chỉ khi được Cấp sắc, người đàn ông mới có “ánh sáng” – tức linh hồn được công nhận, mới đủ tư cách để thờ cúng tổ tiên, lập gia đình, hành đạo làm thầy cúng, bảo vệ bản làng và linh hồn sau khi chết mới được siêu thoát.
![]() |
Lễ Cấp sắc là 1 trong 8 Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia của đồng bào Dao. |
Lễ thường kéo dài từ 3 đến 7 ngày, diễn ra vào mùa đông. Trong ánh lửa bập bùng, các thầy cúng đọc những bản kinh cổ bằng tiếng Dao, thỉnh mời thần linh, tổ tiên về chứng giám. Hàng chục nghi lễ được thực hiện theo trình tự nghiêm ngặt, từ dựng bàn thờ, dâng lễ, gọi hồn, đặt tên âm, ban đạo hiệu, đến nghi lễ “qua cầu rút phép” – như một cuộc du hành sang cõi linh thiêng. Mỗi chi tiết đều mang lớp nghĩa tượng trưng: mũ cánh chuồn, áo lễ thêu tay, kiếm phép trừ tà, tiếng kèn, tiếng chiêng, nhịp điệu trống – tất cả hòa quyện tạo nên một vũ trụ nghi lễ sống động đầy mê hoặc.
Điều kỳ diệu là dù trải qua bao biến thiên, người Dao ở Tuyên Quang vẫn gìn giữ nguyên vẹn Lễ Cấp sắc như một cội rễ tâm linh không thể thay thế. Đó là biểu hiện cao nhất của sự cố kết cộng đồng, của mối liên kết thiêng liêng giữa con người – tổ tiên – thần linh.
Bên cạnh đó là hàng loạt nghi lễ độc đáo khác: lễ tạ ơn thần rừng, lễ dựng nhà, cầu mùa, cầu trăng, lễ cưới truyền thống, lễ đặt tên con… Mỗi lễ nghi là một thực hành văn hóa tinh thần, một biểu tượng của trí tuệ, đức tin và sự cố kết cộng đồng.
![]() |
Trong 54 dân tộc Việt Nam, có khoảng 16 dân tộc được xếp vào nhóm “rất ít người”, nhiều dân tộc chỉ còn vài nghìn người, thậm chí vài trăm hộ. Điều đặc biệt Tuyên Quang hội tụ hầu hết các dân tộc có số dân dưới 10.000 người trên cả nước: Lô Lô, Pu Péo, Bố Y, La Chí, Pà Thẻn… với hệ thống lễ nghi, tiếng nói và kiến trúc đặc biệt. Đây không chỉ là một hiện tượng dân tộc học mà còn là một kho báu văn hóa sống động.
![]() |
Tuyên Quang hội tụ hầu hết các dân tộc có số dân dưới 10.000 người trên cả nước. |
Người Pà Thẻn di cư vào Việt Nam từ khoảng 200-300 năm trước, cư trú chủ yếu tại các xã Tân Trịnh, Tân Quang, Minh Quang, Tri Phú. Trong đời sống tín ngưỡng của dân tộc Pà Thẻn, thần lửa là vị thần thiêng liêng nhất của dân tộc. Xuất phát từ quan niệm đó, người phụ nữ Pà Thẻn lấy màu đỏ với quan niệm là màu của ngọn lửa, ánh sáng làm màu sắc chủ đạo trên bộ trang phục.
Họ khéo léo kết hợp với các màu sắc như: trắng, đen, vàng để tạo nên bộ trang phục hài hòa, nổi bật giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Hiện nay, người Pà Thẻn có hai Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia gồm: Lễ hội Nhảy lửa và Lễ cầu mùa.
![]() |
Đồng bào Pà Thẻn giã bánh dày để dâng lên tổ tiên trong Lễ cầu mùa. |
Người Lô Lô sống chủ yếu ở Lũng Cú nổi bật với trang phục rực rỡ như tranh vẽ, những bộ váy áo được kết từ hàng ngàn mảnh vải nhỏ khâu tay. Trống đồng Lô Lô, dẫu chỉ còn lại vài chiếc cổ vật, vẫn vang vọng âm thanh của tổ tiên trong lễ hội mừng mùa, mừng nhà mới. Dù dân số không đông nhưng đồng bào Lô Lô vẫn giữ nét văn hóa độc đáo của dân tộc, trong đó Lễ cúng tổ tiên của người Lô Lô, Nghệ thuật trang trí trên trang phục truyền thống của người Lô Lô đen đã được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.
![]() |
Nghệ thuật thêu của người Lô Lô đen là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. |
Người Pu Péo – một dân tộc còn chưa đến 1.000 người sống chủ yếu ở Đồng Văn cũng sở hữu 2 Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia gồm: Lễ ra đồng (Pặt oong) và Lễ cúng thần rừng. Ngoài ra, họ vẫn giữ được kiến trúc nhà trình tường bằng đất, kỹ thuật canh tác bền vững trên núi đá, và hệ thống tín ngưỡng gắn liền với rừng, suối, đá, trời.
![]() |
Lễ cúng thần rừng của người Pu Péo là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. |
Người Bố Y, sống ở Yên Minh và Bắc Mê, có ngôn ngữ riêng, tập tục tôn thờ thần nông và thần bản mường, với lễ hội mở cửa rừng đầu năm và nghi lễ tạ ơn tổ tiên mang sắc thái độc đáo. Đặc biệt, Dân ca Bố Y của người Bố Y đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.
![]() |
Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia -Dân ca Bố Y được bảo tồn trong cộng đồng. |
![]() |
Độc đáo văn hóa uống rượu hoẵng trong sừng trâu của đồng bào La Chí tại Lễ mừng cơm mới. |
![]() |
![]() |
Trên tuyến biên giới dài hơn 277km, Tuyên Quang là tỉnh duy nhất ở Việt Nam tiếp giáp cả hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc). Nơi đây gồm 17 xã với 122 thôn bản đã tạo nên những cột mốc văn hóa sống động, góp phần khẳng định chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Trên những dải núi cao, trong từng nếp nhà sàn mộc mạc, văn hóa không nằm trong sách vở mà sống động trong đời thường: trong điệu hát Páo Dung, trong nghi lễ Cấp sắc linh thiêng, trong từng hoa văn thêu tay trên bộ trang phục rực rỡ của người Dao, người Mông, người Lô Lô…
![]() |
Đồng bào Lô Lô xã Lũng Cú tự hào giữ hồn cốt văn hóa nơi địa đầu Tổ quốc. |
Suốt bao thế hệ, người Lô Lô ở cực Bắc vẫn kiên trì lưu giữ tiếng trống đồng cổ xưa, những bộ trang phục được dệt từ hàng nghìn mảnh vải nhỏ. Dù chỉ là một trong những dân tộc ít người nhất, dưới 10.000 người, nhưng văn hóa Lô Lô lại là minh chứng sống động về sự bền bỉ của cội nguồn dân tộc Việt Nam trên vùng đất địa đầu. Với họ, giữ gìn văn hóa chính là giữ lấy hình hài Tổ quốc – không phải bằng những tuyên ngôn to tát mà bằng từng nhịp sống, từng nếp nghĩ, từng hành động giản dị.
![]() |
Văn hóa độc đáo của các dân tộc không nằm trong sách vở mà sống động trong đời thường, ở nơi biên cương như xã Sơn Vĩ – xã giáp ranh với tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). |
Giữ bản sắc là giữ chủ quyền. Điều này không phải là lý thuyết xa xôi mà hiện hữu trong từng việc làm cụ thể của đồng bào nơi biên giới, như chia sẻ của anh Giàng Seo Lìn, một nghệ nhân người Mông nơi sát đường biên giới thôn Thèn Ván, xã Pà Vầy Sủ: “Chúng tôi sống ở đây đã bao đời, phong tục tập quán là cội rễ. Giữ văn hóa là giữ bản làng. Mất cái đó là mất mình, mất đất”. Câu nói mộc mạc ấy như khẳng định điều thiêng liêng: Văn hóa chính là căn cước, là sợi dây nối con người với non sông, lãnh thổ.
![]() |
Bản giao hưởng văn hóa mới của đồng bào các dân tộc Tuyên Quang. |
Thực hiện: Hoàng Bách - Hoàng Anh - Giang Lam - Biện Luân
Thu Phương – Bích Ngọc