Báo Tuyên Quang điện tử
.

Kỳ 3: Khoảng lặng sau bản hòa âm rực rỡ

09:53, 18/07/2025
 

Giữa bản hòa âm đa sắc của các dân tộc thiểu số xứ Tuyên còn đó những khoảng lặng và bao trăn trở. Đó là nỗi lo mai một bản sắc, biến mất tộc người, hủ tục bào mòn bản sắc, sự thờ ơ của giới trẻ. Thiếu người kế thừa, di sản vô giá đang đứng trước nhiều nguy cơ…

 

 

 

Đầu năm 2023, tin buồn về sự ra đi của Nghệ nhân dân gian Lương Long Vân ở tuổi 95 đã để lại một khoảng trống lớn trong cộng đồng người Tày xứ Tuyên. Cụ Vân là một trong số rất ít nghệ nhân còn lại thông thạo và tận tâm với chữ Nôm Tày.  Cụ từng miệt mài dịch thuật, biên soạn, và truyền dạy không ngừng nghỉ. Cụ sở hữu hơn 100 cuốn sách cổ và đã biên dịch, ghi chép hàng chục cuốn sách về nghi lễ thờ cúng, bài khấn; lời khuyên răn dạy bảo, bài thuốc dân gian…

Các cuốn sách được xuất bản như “Văn Quan làng Tuyên Quang”, “Một số cung Then cổ chữ Nôm - Tày”… Trong đó, cuốn sách “Văn Quan làng Tuyên Quang” dày 410 trang là một tư liệu chuyên biệt về hát Văn Quan làng đầu tiên của tỉnh Tuyên Quang. Công trình nghiên cứu được trao Giải thưởng Tân Trào năm 2019.

Khi còn sống Nghệ nhân dân gian Lương Long Vân (bên trái) được nhiều học trò tìm đến.
Khi còn sống Nghệ nhân dân gian Lương Long Vân (bên trái) được nhiều học trò tìm đến.

Ngôi nhà nhỏ của cụ ở thôn Yên Phú, phường An Tường từng là điểm tựa cho bao người tìm đến học hỏi, nay vắng bóng người thầy, để lại niềm tiếc nuối khôn nguôi về một "kho tàng sống" đã khuất bóng. Không chỉ là sự ra đi của những "báu vật sống" như cụ Lương Long Vân, mà cả những tài liệu vật chất quý giá cũng đang dần biến mất.

Xa xưa, sách cổ người Dao, Tày rất nhiều, thường được các thầy cúng, người uy tín, trưởng các dòng họ lưu giữ. Theo thời gian, nguồn sách cổ hay các tranh thờ trong dân gian hiện nay đang đối mặt với nguy cơ thất truyền, mai một nghiêm trọng.

Những cuốn sách cổ hàng trăm năm tuổi và nỗi lo mai một.
Những cuốn sách cổ hàng trăm năm tuổi và nỗi lo mai một.
 
 

- Xẩn nhắng ho lớp xa e? (Cháu năm nay học lớp mấy nhỉ?).

- Xẩn nghưn nằng à gô? (Cháu ăn cơm rồi ạ).

Đó là đoạn hội thoại ngắn giữa hai ông cháu người Dao, thôn Hòn Lau, xã Yên Sơn. Tình trạng “ông hỏi gà, cháu trả lời vịt” như này diễn ra khá phổ biến giữa hai thế hệ. Anh Lý Văn Thanh, Trưởng thôn Hòn Lau, xã Yên Sơn chia sẻ, thường những cụ già ở đây thích giao tiếp bằng tiếng Dao còn các cháu trẻ chỉ hiểu bập bõm, có cháu còn không biết nói, nên tình trạng “lệch sóng” là chuyện bình thường.

Nghệ nhân Ưu tú Ma Văn Đức nhận định rằng, trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, nhiều gia đình dân tộc Tày, Dao, Nùng, Cao Lan, Mông… những người trẻ chỉ biết nói tiếng phổ thông. Thậm chí có người biết nhưng ngại giao tiếp nên tiếng nói của dân tộc cũng dần mai một đi.

Nghệ nhân ưu tú Ma Văn Đức tích cực truyền dạy Then cho thế hệ trẻ
Nghệ nhân ưu tú Ma Văn Đức tích cực truyền dạy Then cho thế hệ trẻ

Với người Dao – dân tộc có hệ thống chữ viết riêng – sự mai một thậm chí còn cấp bách hơn. Nghệ nhân Triệu Chàn Loàng ở xã Tân Quang lặng lẽ giữ gìn những trang sách cổ, những bài cúng, những lễ cấp sắc. Nhưng lớp trẻ thì dần thờ ơ, xem đó là thứ không thiết thực. “Không ai nối nghiệp, thì sau này lấy ai đọc sách cúng, làm lễ tổ tiên?”- ông Loàng thở dài, như nói hộ tiếng lòng của biết bao nghệ nhân đang lặng lẽ đối mặt với nguy cơ văn hóa không người kế tục.

Sự thờ ơ ấy không phải không có lý do. Bà Hà Thị Xuyến, thôn Đồng Hương, xã Chiêm Hóa trải lòng: “Giới trẻ giờ đây thích lướt TikTok, Facebook. Chúng mặc quần bò, áo phông thay vì trang phục truyền thống, nói tiếng Kinh thay vì tiếng dân tộc, và hát những bài nhảy nhót trong băng đĩa thay vì những làn điệu dân ca của mình”. Tiếng thở dài của các nghệ nhân, già làng là lời cảnh báo khẩn thiết về một tương lai mà bản sắc dân tộc có thể chỉ còn là ký ức.

Trang phục là một phần hồn cốt của văn hóa. Thế hệ trẻ và khán giả đại chúng có thể nhầm lẫn giữa phiên bản biểu diễn và bản gốc, từ đó làm phai mờ tri thức văn hóa chuẩn xác.
Trang phục là một phần hồn cốt của văn hóa. Thế hệ trẻ và khán giả đại chúng có thể nhầm lẫn giữa phiên bản biểu diễn và bản gốc, từ đó làm phai mờ tri thức văn hóa chuẩn xác.

Không chỉ tiếng nói, trang phục truyền thống cũng đang bị thay thế bởi sự tiện lợi và giản đơn. Nếu như trước kia, đồng bào các dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Mông vẫn tự hào khoác lên mình những bộ trang phục đậm nét văn hóa dân tộc trong sinh hoạt hằng ngày, thì nay, đặc biệt là nam giới và giới trẻ, ngày càng hiếm khi mặc trang phục dân tộc. Di sản thị giác từng mang đậm dấu ấn cộng đồng đang dần lùi về các dịp lễ hội, thậm chí bị cách tân, thương mại hóa, mất đi sự chuẩn mực vốn có.

Khoác lên mình trang phục truyền thống từ thuở bé chính là cách nuôi dưỡng tình yêu và ý thức gìn giữ bản sắc dân tộc.
Khoác lên mình trang phục truyền thống từ thuở bé chính là cách nuôi dưỡng tình yêu và ý thức gìn giữ bản sắc dân tộc.
 

Câu chuyện của nhóm bạn trẻ Hoàng Ngọc Hoàn, Nịnh Thị Hà và Nguyễn Văn Tiến tại thôn Đoàn Kết, xã Nhữ Hán là một minh chứng sống động. Với tình yêu văn hóa Cao Lan, họ đã cùng nhau xây dựng kênh TikTok "Bản Sán chay".

Chỉ trong gần một năm, kênh đã thu hút 75 nghìn lượt theo dõi, nhiều video đạt triệu view, giới thiệu sinh động nét văn hóa, phong tục, chữ viết, tiếng nói của người Cao Lan. Dự án hứa hẹn đưa văn hóa dân tộc mình “lan toả” hơn. Thế nhưng, chỉ sau chưa đầy một năm, bạn Nịnh Thị Hà đã phải rời nhóm để đi làm công nhân tại một công ty tại Hà Nội.

Gánh nặng mưu sinh đã buộc cô gái trẻ phải tạm gác lại đam mê để tìm kiếm nguồn thu nhập ổn định hơn, để lại khoảng trống và nỗi tiếc nuối cho dự án đầy tâm huyết.

Tiktoker Hoàng Ngọc Hoàn sáng tạo video.
Tiktoker Hoàng Ngọc Hoàn sáng tạo video.

Tương tự, hành trình của nghệ nhân trẻ Chu Văn Thạch là câu chuyện về tài năng và nỗ lực phi thường. Anh đã từng bước đưa cây đàn Tính 12 dây bước ra sân khấu lớn, nhận được sự khen ngợi tại Đại hội Đại biểu toàn quốc các DTTS Việt Nam lần thứ II năm 2020. Mới đây nhất, Chu Văn Thạch còn giành giải Bạc tại Liên hoan độc tấu nhạc cụ dân tộc tổ chức tại Hà Nội.

Không chỉ biểu diễn, anh Thạch còn tích cực truyền dạy hát Then, đàn Tính thông qua hai kênh YouTube “Đan tinh Chu Thach” (dạy đàn Tính từ cơ bản đến nâng cao) và “Chu Thach Official” (đăng tải các tiết mục biểu diễn). Anh còn giảng dạy trực tiếp, thậm chí sử dụng Facebook và Zoom để dạy trực tuyến cho những người yêu hát Then, đàn Tính ở xa.

Nghệ nhân Chu Thạch đam mê truyền lửa văn hóa người Tày.

Thế nhưng, dù tài năng và nhiệt huyết là vậy, Chu Văn Thạch cũng như bao người trẻ khác, vẫn phải đối mặt với áp lực mưu sinh. Anh phải làm thêm nhiều nghề, từ cơ khí đến lắp ráp máy móc nông nghiệp, để đảm bảo cuộc sống. Có những lúc, anh chia sẻ, thời gian dành cho đam mê bị thu hẹp đáng kể vì guồng quay của công việc.

Những câu chuyện của Nịnh Thị Hà và Chu Văn Thạch không chỉ là của riêng họ mà còn đại diện cho rất nhiều nghệ nhân trẻ khác đang ngày đêm gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Họ có tri thức, có nhiệt huyết, có khả năng thích nghi với công nghệ hiện đại để đưa di sản vươn xa. Tuy nhiên, nếu không có những cơ chế hỗ trợ, những chính sách tạo điều kiện thuận lợi để họ sống được bằng nghề, bằng đam mê, thì gánh nặng mưu sinh sẽ mãi là rào cản lớn.

 

Giữa nhịp sống hiện đại, tại các bản làng xứ Tuyên, sự xuất hiện ngày càng nhiều của những ngôi nhà xây kiên cố, mái ngói hiện đại đang dần đẩy lùi không gian kiến trúc truyền thống. Sự thay đổi này không chỉ đơn thuần là vấn đề nhà ở, mà còn là nỗi trăn trở về một khoảng trống văn hóa ngày càng lớn trong đời sống cộng đồng.

Dọc theo những con đường len lỏi vào các bản làng ở Tuyên Quang, hình ảnh những ngôi nhà sàn cột gỗ vững chãi dần trở thành ký ức. Ông Ma Văn Vinh, thôn Đồng Hương, xã Chiêm Hóa không khỏi bùi ngùi khi nhớ lại: "Ngày xưa, đi dọc từ Chiêm Hóa, Kiên Đài, Minh Quang đến Thượng Lâm, đâu đâu cũng thấy nhà sàn ẩn hiện trong sương sớm, mờ ảo sau các đồi cọ. Cảnh tượng ấy bình yên và đẹp lắm. Giờ thì chỉ lác đác vài ba ngôi nhà, có lẽ cũng sắp bị dỡ bỏ. Bếp lửa bập bùng cũng đã thay bằng bếp ga, bếp điện".  Lời nói của ông Vinh không chỉ là nỗi nhớ của một cá nhân, mà còn là nỗi trăn trở của cả một thế hệ.

Những nếp nhà xây hiện đại dần thay thế những nếp nhà sàn truyền thống ở nhiều bản làng người Tày xứ Tuyên.
Những nếp nhà xây hiện đại dần thay thế những nếp nhà sàn truyền thống ở nhiều bản làng người Tày xứ Tuyên.

Không gian văn hóa truyền thống cũng đang dần thu hẹp và mai một theo những nếp nhà sàn của người Tày, nhà trình tường của Mông. Bà Nguyễn Thị Cắm (95 tuổi) ở Ngòi Nè, xã Nà Hang nhớ lại thời thanh xuân đầy ắp tiếng cười: "Nhà sàn ngày xưa rộng lắm, vừa là nơi ở, sinh hoạt của gia đình, vừa là nơi sinh hoạt văn hóa của cả cộng đồng.

Các phòng được ngăn tượng trưng bằng những màn vải chàm đen chứ không phải màn tuyn như bây giờ. Chăn, gối đều là sản phẩm thổ cẩm bà con tự dệt. Còn bây giờ, nhà xây hiện đại nên không gian sinh hoạt văn nghệ cũng không còn; những tấm chăn thổ cẩm cùng dần bị thay thế”.

 

 

Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Tuyên Quang Nguyễn Phi Khanh cũng nhận định: "Việc nhà sàn, nhà trình tường truyền thống dần biến mất không chỉ là mất đi một loại hình kiến trúc mà còn là mất đi không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Điều này dẫn đến sự đứt gãy trong việc truyền dạy và thực hành các nghi lễ, hát dân ca.

Vì vậy cần có những chính sách, cơ chế hỗ trợ, khuyến khích người dân bảo tồn nếp nhà truyền thống, đồng thời lồng ghép vào đó những yếu tố tiện nghi để phù hợp với cuộc sống hiện đại”.

 

Trong đời sống cộng đồng người Mông, tục "kéo vợ" là một nét văn hóa độc đáo, vốn thể hiện tình cảm chân thành của đôi lứa và đề cao phẩm chất người phụ nữ. Thế nhưng, khi những giá trị nguyên bản không được gìn giữ trọn vẹn, phong tục này lại dễ biến tướng thành hành vi trái pháp luật.

Minh chứng rõ nét cho điều này là vụ việc xảy ra vào năm 2022 tại thôn Pả Vi Hạ, xã Mèo Vạc. G.M.C, sinh năm 2006, đã lợi dụng tục "kéo vợ" để ép buộc một cô gái trẻ về làm vợ. Mặc cho nạn nhân gào khóc, van xin, C. vẫn cố tình lôi kéo, bất chấp sự phản đối. Chỉ đến khi lực lượng Công an xã có mặt, hành vi trái pháp luật ấy mới bị ngăn chặn. Vụ việc này không chỉ là hồi chuông cảnh tỉnh về đạo đức mà còn đặt ra câu hỏi pháp lý về cách bảo vệ quyền con người trong khuôn khổ các phong tục.

“Kéo vợ” là nghi thức cầu hôn độc đáo của người Mông, cần được hiểu đúng và thực hành đúng, tránh biến tướng thành hành vi vi phạm pháp luật.
“Kéo vợ” là nghi thức cầu hôn độc đáo của người Mông, cần được hiểu đúng và thực hành đúng, tránh biến tướng thành hành vi vi phạm pháp luật.

Không chỉ người Mông, với người Dao, lễ Cấp sắc cũng bộc lộ những hệ lụy khi bị hiểu sai lệch. Ông Triệu Đức Thanh (phường Hà Giang 2) trăn trở: "Nghi lễ Cấp sắc đánh dấu bước ngoặt trưởng thành của người con trai trong cộng đồng, có đủ tư cách thờ cúng tổ tiên, tham gia việc làng, việc họ. Nhưng điều đó không có nghĩa là trưởng thành về mặt thể chất, tinh thần hay pháp lý. Đáng tiếc, có nơi còn hiểu sai về sự trưởng thành trong lễ cấp Sắc dẫn đến tảo hôn, bỏ học, ảnh hưởng tới tương lai của cả một thế hệ".

Thực tế đau lòng là câu chuyện của cậu bé Đ.V.B, thôn Lùng Tao, xã Cao Bồ. 10 tuổi, Đ.V.B được làm lễ Cấp sắc, 14 tuổi "về chung nhà" với một cô gái cùng thôn. Đến năm 18 tuổi, Đ.V.B đã là bố của hai con nhỏ. Cuộc hôn nhân non trẻ ấy nhanh chóng tan vỡ. Trưởng thôn Lùng Tao Đặng Văn Quang cho biết: "Gia đình Đ.V.B thuộc diện hộ nghèo của xã. Công việc bấp bênh khiến gánh nặng mưu sinh của bố đơn thân càng thêm chồng chất".

Tại thôn Nậm An, xã Tân Quang – nơi 100% dân số là người Dao, các nghi lễ truyền thống vẫn được duy trì song cũng tiềm ẩn nhiều hủ tục "ăn sâu bén rễ". Nghệ nhân Triệu Chàn Loàng cho biết: Lễ Cấp sắc kéo dài 3 ngày 3 đêm, mổ tới 5 con lợn (80–100kg/con), chưa kể gia cầm, rượu, gạo, tiền công 5 thầy cúng… Tổng chi phí khoảng 50 triệu đồng, thậm chí hơn. Với những gia đình nghèo, không thể tổ chức lễ Cấp sắc, con trai sẽ bị xem là "trẻ con" suốt đời trong cộng đồng.

Gánh nặng kinh tế còn đeo bám trong nghi lễ cưới hỏi của người Dao với thách cưới nặng nề: 55 đồng bạc già (khoảng 55 triệu đồng), 1 tạ gạo, 1 tạ rượu, 1 tạ thịt. Đám cưới kéo dài 3 ngày 3 đêm kèm theo giết mổ hàng loạt gia súc. Ông Loàng chua xót: "Không có tiền thì không cưới được vợ, nhiều người đành đi ở rể. Nhiều cặp phải hoãn cưới hoặc lâm cảnh nợ nần sau đám cưới".

Trên Cao nguyên đá Đồng Văn, không ít đám tang của người Mông trở thành hủ tục, để lại nhiều hệ lụy trong đời sống hiện đại. Năm 2024, gia đình ông V.M.Ch, thôn 1, xã Mèo Vạc vẫn tổ chức đám tang mẹ theo truyền thống: Kéo dài nhiều ngày, mổ gần 10 con bò cùng nhiều lợn, đặt thi thể trên cáng gỗ giữa nhà, không khâm liệm ngay, làm lễ "bón cơm" và các nghi thức tâm linh khác gây ô nhiễm môi trường. Dù kinh tế khó khăn, ông Ch. vẫn gồng gánh chi phí tang ma lớn để trả món “nợ đồng lần”, khiến gia đình lâm cảnh kiệt quệ.

Không đưa người chết vào áo quan, phơi thi hài là vấn đề nhức nhối ở đồng bào Mông vùng Cao nguyên đá Đồng Văn.
Không đưa người chết vào áo quan, phơi thi hài là vấn đề nhức nhối ở đồng bào Mông vùng Cao nguyên đá Đồng Văn.

Những câu chuyện trên cho thấy, dù chứa đựng giá trị văn hóa sâu sắc nhưng các phong tục truyền thống vẫn cần được nhìn nhận lại, chọn lọc và điều chỉnh phù hợp với đời sống hiện đại để không trở thành rào cản cho tương lai.

 

Tại Tuyên Quang có một thực trạng buồn, đó là sự mai một dần của hai tộc người Tống và Thủy – những cộng đồng nhỏ bé nhưng mang trong mình kho tàng văn hóa độc đáo. Với dân số chỉ vỏn vẹn chưa đến 100 người mỗi tộc, họ đang đứng trước nguy cơ "biến mất" khỏi bản đồ văn hóa Việt Nam.

Nếp nhà của tộc người Tống.
Nếp nhà của tộc người Tống.

Tại thôn Đồng Mộc, xã Trung Sơn, nơi sinh sống của tộc người Tống, ông Thạch Văn Túc – một người có uy tín trong cộng đồng – không giấu được nỗi buồn khi chia sẻ: "Chúng tôi có trang phục riêng, phong tục riêng, tiếng nói riêng. Thế nhưng qua thời gian đã dần mai một, hiện nay theo căn cước công dân, các loại giấy tờ đều ghi chúng tôi là dân tộc Pà Thẻn”.

 

Tộc người Thủy ở Tuyên Quang lại càng khiến các nhà nghiên cứu văn hóa phải trăn trở. Thôn Thượng Minh, xã Hồng Quang, ẩn mình trong thung lũng với những dãy núi đá cao sừng sững, là nơi duy nhất trên dải đất hình chữ S này có người Thủy sinh sống. Với 21 hộ gia đình và gần 100 nhân khẩu, tộc người Thủy hiện có ba dòng họ chính là Lý, Mùng và Bàn.

Đồng chí Chẩu Thị Khuyên, Chủ tịch UBND xã Minh Quang chia sẻ: "Trên địa bàn của tỉnh có một tộc người Thủy đang sinh sống, nhưng lại đứng ngoài danh mục, không được công nhận, về luật pháp đứng ngoài hệ thống, nên làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân. Do đó, chính quyền đã vận động cộng đồng người Thủy về nhập vào dân tộc Pà Thẻn, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người dân”.

Mặc dù tộc người Thủy nhập vào dân tộc Pà Thẻn để đảm bảo quyền lợi công dân, nhưng với những người già như ông Mùng Văn Khảo, 81 tuổi thì đó là nỗi đau mất nguồn cội: "Giờ đây, căn cước của mỗi người Thủy đều đã mang tên dân tộc Pà Thẻn. Con cháu đời sau sẽ không biết mình thuộc tộc người Thủy nữa. Tiếng của tộc người Thủy giờ cũng chỉ người già như tôi biết nói, trang phục cả thôn chỉ còn 3 bộ. Đây là một nỗi buồn không thể nguôi ngoai”.

Tộc người Thủy ở Thượng Minh hiện chỉ còn lưu giữ 3 bộ quần áo truyền thống.
Tộc người Thủy ở Thượng Minh hiện chỉ còn lưu giữ 3 bộ quần áo truyền thống.

Sự "biến mất" của một tộc người không chỉ là mất đi một cộng đồng, mà còn là mất đi một phần di sản văn hóa quý giá của đất nước. Do đó, cần có những chính sách toàn diện và kịp thời hơn nữa để bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của các tộc người thiểu số, đặc biệt là những tộc người đang đứng trước nguy cơ mai một.

Thực hiện: Hoàng Bách - Hoàng Anh - Giang Lam - Biện Luân
Thu Phương - Bích Ngọc

Kỳ 1: Mở kho báu các dân tộc Tuyên Quang

Kỳ 2: Truyền lửa di sản 

Kỳ cuối: Giữ kho báu ngàn năm - Nối mạch nguồn dân tộc

Khoảng lặng sau bản hòa âm rực rỡ xứ Tuyên tộc người hủ tục di sản vô giá Nghệ nhân dân gian Lương Long Vân sách cổ người Dao Nghệ nhân Ưu tú Ma Văn Đức văn hóa gìn giữ bản sắc dân tộc Tiktoker Hoàng Ngọc Hoàn hát Then đàn Tính Tuyên Quang người Mông người Tống Pà Thẻn quần áo truyền thống

Ý kiến bạn đọc


Đọc tiếp