Ban Nghiên cứu Lịch sử - Đia lý - Văn học
Ngày 2-12-1953, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 34-QĐ/TW thành lập Ban nghiên cứu Lịch sử, Địa lý, Văn học Việt Nam, trực thuộc Trung ương Đảng (gọi tắt là Ban nghiên cứu Sử - Địa - Văn). Ban có nhiệm vụ: sưu tầm, nghiên cứu và biên soạn những tài liệu về sử học, địa lý và văn học Việt Nam; nghiên cứu và giới thiệu lịch sử, địa lý và văn học nước bạn. Ban Nghiên cứu Sử - Địa - Văn gồm các đồng chí: Trần Huy Liệu, Minh Tranh, Tôn Quang Phiệt, Trần Đức Thảo, Vũ Ngọc Phan, do đồng chí Trần Huy Liệu làm Trưởng ban. Ban chia thành các tổ chuyên môn: Lịch sử cận hiện đại, Văn học, Địa lý và Phiên dịch Hán Nôm.
Tập san nghiên cứu Văn Sử Địa.
Ban đã tập hợp được lực lượng nghiên cứu từ Việt Bắc đến Khu III, Khu IV và Khu học xá Trung ương gồm các đồng chí: Trần Văn Giàu, Đào Duy Anh, Nguyễn Đổng Chi, Trần Văn Giáp, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông...
Ban nghiên cứu Sử - Địa - Văn làm việc tại xóm Mới, thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương đến cuối cuộc kháng chiến.
Tháng 6-1954, tại Tân Trào, tập san Sử - Địa - Văn ra đời đã kịp thời cung cấp nhiều tài liệu cho một số cơ quan giáo dục, tuyên truyền, huấn luyện, lớp nghiên cứu.
Ban chú trọng xây dựng thư viện sử, địa, văn, thu thập tư liệu Hán văn, Pháp văn, Việt văn được lưu giữ trong nhân dân, sách báo trong nước, dịch thuật tài liệu nước ngoài, bảo quản các tư liệu quý hiếm thu thập được, nhất là các bản thảo sách, báo làm cơ sở cho công tác nghiên cứu sau này. Ban còn trực tiếp hướng dẫn việc biên soạn sách giáo khoa về các ngành, các trường phổ thông, các công trình nghiên cứu lâu dài.
Thư viện Trung ương
Thư viện Trung ương do Văn phòng Trung ương Đảng thành lập cuối năm 1951. Đầu năm 1952, Thư viện tách ra, mang bí danh CP15, làm việc tại thôn Tân Lập, xã Tân Trào đến tháng 10-1954.
Cơ quan có 14 cán bộ, nhân viên, do đồng chí Nguyễn Đức phụ trách. Thư viện bảo quản các tài liệu, sách báo phục vụ các ban, ngành thuộc Trung ương Đảng và Chính phủ. Thư viện còn cung cấp sách dạy bình dân học vụ cho nhân dân địa phương.
Hội Văn nghệ Việt Nam (nay là Liên hiệp các hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam)
Hội Văn nghệ Việt Nam ở và làm việc tại làng Xuân Huy, xã Trung Môn, huyện Yên Sơn (1951-1954). Tại đây, một bộ phận của Hội cùng gia đình các văn nghệ sĩ ở xóm Khuôn Than. Hội Văn nghệ Việt Nam do nhà văn Nguyễn Tuân làm Tổng thư ký. Cơ quan có khoảng 40 cán bộ, nhân viên, gồm các bộ phận: Tiểu ban văn nghệ Trung ương có các nhà văn, nhà thơ: Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nam Cao, Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Sanh, Hoàng Trung Thông; Bộ phận biên tập có nhà văn Đào Vũ. Hôi con co bộ phận quản lý xuất bản, bộ phận hành chính quản trị, tiếp tế, giao thông và cac đơn vị trực thuộc hoạt động độc lập: Ban Văn hóa văn nghệ, Đoàn Văn công Trung ương. Hội Văn nghệ Việt Nam chỉ đạo các hội văn nghệ địa phương và các hoạt động văn nghệ toàn quốc (từ các chiến khu Nam Bộ, Liên khu V, Chiến khu Bình Trị Thiên, Khu X, Đặc khu Hà Nội...), triển khai đường lối văn hóa văn nghệ của Trung ương Đảng, hoạch định các hoạt động văn nghệ, tổ chức sáng tác, xuất bản báo, tạp chí Văn nghệ phục vụ nhân dân, bộ đội, cán bộ. Từ làng Xuân Huy, các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ đi về các làng bản, cùng bộ đội hành quân đi chiến dịch để phản ánh chân thực cuộc sống lao động, chiến đấu của bộ đội và nhân dân.
Các văn nghệ sĩ dự Hội nghị Chấp hành mở rộng Hội Văn nghệ Việt Nam tại Việt Bắc (tháng 3.1951). Từ phải sang, hàng trước: Nam Cao, Nguyên Hồng, Kim Lân, Nguyễn Đình Thi. Hàng sau: Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Hoàng Trung Thông, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Học Phi, Nguyễn Đỗ Cung.
Chủ đề chiến đấu chiếm vị trí chủ đạo trong sáng tác của các văn nghệ sĩ. Một lực lượng khá đông văn nghệ sĩ như Nguyễn Công Hoan, Thâm Tâm, Thế Lữ, Tô Hoài, Nam Cao, Nguyễn Đình Thi, Trần Đăng, Thôi Hữu, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung... đã thâm nhập vào thực tiễn đời sống chiến đấu của bộ đội làm nên những sáng tác phản ánh trung thực cuộc kháng chiến như: Ở rừng, Trận Phố Ràng, Ký sự Cao Lạng...
Đa số các văn nghệ sĩ dành phần lớn thời gian đi thực tế, tham gia các chiến dịch, các cuộc vận động như cuộc phát động giảm tô, vận động thuế nông nghiệp để lấy tư liệu sáng tác. Năm 1951, từ lang Xuân Huy, nhà văn Nam Cao xuôi đò Bình Ca vào công tác vùng địch hậu và hy sinh.
Tháng 3-1951, tại Xuân Huy, Hội Văn nghệ Việt Nam và Đoàn Sân khấu Việt Nam tổ chức hội nghị bàn về sân khấu, khẳng định quan điểm phát triển nghệ thuật chèo, tuồng, mở ra hướng đi cho loại hình nghệ thuật sân khấu này.
Năm 1951, Hội Văn nghệ Việt Nam đã mở lớp huấn luyện văn nghệ cho 170 học viên đến từ cơ sở.
Gửi phản hồi
In bài viết