Bác sĩ khám lại cho bệnh nhân sau khi phẫu thuật.
Mới đây, các bác sĩ Khoa Tim mạch trẻ em, Trung tâm tim mạch, Bệnh viện E đã triển khai thành công kỹ thuật thay van động mạch phổi nhân tạo qua da, không cần mổ mở, cho một bệnh nhân nhi (14 tuổi, ở Hà Đông, Hà Nội) có tiền sử mắc bệnh tim bẩm sinh phức tạp tứ chứng fallot.
Bệnh nhi đã được phẫu thuật sửa toàn bộ tại một bệnh viện tuyến trung ương lúc 6 tháng tuổi. Tuy nhiên, gần đây, các bác sĩ phát hiện cháu bé bị hở van động mạch phổi gây suy thất phải.
Theo các bác sĩ, đây là diễn tiến tự nhiên thường gặp sau phẫu thuật điều trị tứ chứng fallot. Vì vậy, các bác sĩ đã chỉ định thay van động mạch phổi qua da cho người bệnh nhi này.
Tiến sĩ, bác sĩ Trần Đắc Đại, Trưởng khoa Tim mạch trẻ em, Trung tâm tim mạch, Bệnh viện E cho biết, thông thường đối với các trường hợp mắc bệnh này tại Việt Nam nói chung và Bệnh viện E nói riêng, các bác sĩ hay lựa chọn mổ cưa xương ngực và thay ống van động mạch phổi nhân tạo (conduite) cho người bệnh.
Người bệnh phải trải qua một cuộc phẫu thuật lớn như phải gây mê hồi sức, cưa xương ức, liệt tim… và cắt thân động mạch phổi, khoét phễu thất phải để thay conduite động mạch phổi.
Người bệnh đối mặt với nhiều nguy cơ nguy hiểm như nhiễm trùng, rối loạn chức năng tim, hẹp các miệng nối và những nguy cơ của chạy máy tim phổi nhân tạo…
Bác sĩ siêu âm tim cho bệnh nhi.
Nhưng đối với người bệnh nhi này, thay vì mở lồng ngực để thay van động mạch phổi có mức độ xâm lấn lớn, nguy cơ biến chứng như trên, các bác sĩ quyết định lựa chọn thực hiện can thiệp thay van động mạch phổi qua da cho người bệnh. Bởi vì những ưu điểm vượt trội của kỹ thuật này là quan trọng nhất là người bệnh không trải qua một cuộc phẫu thuật nguy hiểm, không phải cưa xương ức thêm lần nữa và không gây liệt tim, không phải chạy máy tim phổi nhân tạo…
Theo Tiến sĩ, bác sĩ Trần Đắc Đại, với phương thức thực hiện ca can thiệp này, các bác sĩ chỉ mở vào đường tĩnh mạch đùi rồi luồn ống thông lên tĩnh mạch chủ dưới đến nhĩ phải, xuống thất phải và lên động mạch phổi.
Các bác sĩ thực hiện các thao tác để lựa chọn kích cỡ van động mạch phổi phù hợp. Sau đó, đưa van động mạch phổi nhân tạo qua đường ống thông từ tĩnh mạch đùi lên động mạch phổi và tiến hành thả van động mạch phổi, nằm trong thân động mạch phổi nguyên bản của người bệnh.
Thông qua hệ thống máy chụp mạch máu xóa nền, bác sĩ đưa dụng cụ đến vị trí thích hợp, đẩy van nhân tạo ra khỏi ống thông. Sau đó, van nhân tạo bung ra và hoạt động như một van tim bình thường.
Khi lựa chọn thực hiện kỹ thuật khó này cho người bệnh, cần bảo đảm 3 yếu tố quan trọng sau: Thứ nhất, các bác sĩ phải lựa chọn người bệnh phù hợp về tiêu chuẩn, có hở van động mạch chỉ phổi với hình thái động mạch phổi được xác định kỹ càng qua chụp MSCT động mạch phổi và chụp MRI để đánh giá chức năng thất phải. Sau đó, các bác sĩ thực hiện các thao tác thay van động mạch phổi qua da cho người bệnh.
Yếu tố thứ hai có tính quyết định đó là trình độ chuyên môn của người thầy thuốc phải có nhiều năm kinh nghiệm trong can thiệp tim mạch để có thể thực hiện thành công kỹ thuật khó này;
Thứ ba, là một lợi thế khi Trung tâm tim mạch, Bệnh viện E là một cơ sở tim mạch hoàn chỉnh bao gồm phẫu thuật, điều trị nội khoa và can thiệp tim mạch, gây mê hồi sức… với trang thiết bị đồng bộ, hiện đại bảo đảm khám và điều trị các bệnh lý tim, mạch máu và các bệnh lồng ngực cho người bệnh.
Do đó, trong quá trình thực hiện kỹ thuật can thiệp thay van động mạch phổi qua da đã có một ekip phẫu thuật tim mạch chuẩn bị sẵn sàng ứng cứu để xử trí kịp thời những biến chứng nếu có.
Sau can thiệp 2 giờ, người bệnh tỉnh và sức khỏe ổn định, có thể đi lại vào ngày hôm sau. Bệnh nhân được xuất viện sau 2 ngày, tái khám sau xuất viện một tuần. Hiện người bệnh đã hồi phục sức khỏe, hết khó thở, hết mệt mỏi khi gắng sức và có thể trở lại học tập, sinh hoạt bình thường.
Theo Tiến sĩ, bác sĩ Trần Đắc Đại, hiện tại có rất nhiều người bệnh nhi có chỉ định thay van động mạch phổi sau phẫu thuật tim bẩm sinh. Việc áp dụng thành công kỹ thuật thay van động mạch phổi qua da giúp người bệnh có thêm lựa chọn điều trị ít xâm lấn nhưng vẫn mang lại hiệu quả cao.
Gửi phản hồi
In bài viết