Khách hàng giao dịch tại Ngân hàng thương mại cổ phần Tiên Phong. Ảnh: Nguyễn Quang
Sức hấp thụ của nền kinh tế yếu
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà cho biết, đến hết tháng 5-2023, tín dụng nền kinh tế đạt trên 12,3 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 3,17% so với cuối năm 2022. Điều đó cho thấy sức hấp thụ vốn của nền kinh tế năm 2023 yếu hơn so với năm 2022.
Đối với các ngân hàng thương mại nhà nước, chiếm khoảng 44% thị phần tín dụng, tăng trưởng mới đạt khoảng 35% so với mức Ngân hàng Nhà nước đã giao. Nhóm ngân hàng thương mại cổ phần tăng khoảng 50% mức được giao. Như vậy, cả 2 nhóm chiếm thị phần tín dụng chính vẫn còn rất nhiều dư địa để tăng trưởng cho thời gian còn lại của năm.
Cũng theo Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà, những tháng đầu năm 2023, nhiều quốc gia tiếp tục đối mặt với rủi ro suy thoái kinh tế kèm lạm phát cao, nên xu hướng thắt chặt tiền tệ là không tránh khỏi. Ở trong nước, kinh tế cũng đối mặt với nhiều khó khăn. Số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường ngày càng tăng. Các điều kiện kinh doanh tiếp tục bị thu hẹp khi chỉ số quản trị nhà mua hàng (PMI) ngành sản xuất của Việt Nam đã quay đầu giảm từ mức 47,7 trong tháng 3 xuống 46,7 trong tháng 4 vừa qua. Đến tháng 5 vừa qua, PMI lại xuống mức 45.3, đánh dấu tháng thứ ba liên tiếp suy giảm.
Đại diện các ngân hàng thương mại cũng cho rằng, nếu các ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp ở mức chấp nhận được thì nền kinh tế sẽ tốt lên. Nếu ngân hàng hoãn, giãn nợ, nới lỏng điều kiện tín dụng thì khó khăn sẽ chuyển về phía ngân hàng, gây nguy cơ rủi ro mất an toàn hệ thống. Vấn đề đặt ra ở đây là Ngân hàng Nhà nước phải tìm được điểm hài hòa khi vẫn hỗ trợ cho nền kinh tế nhưng vẫn bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước điều hành lãi suất phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh. Trong ảnh: Sản xuất đồ gia dụng tại Nhà máy Thiết bị gia dụng Sơn Hà (Cụm công nghiệp Phùng, huyện Đan Phượng). Ảnh: Viết Thành
Cần nhiều chính sách bổ sung
Trong bối cảnh các điều kiện tài chính toàn cầu “nhiễu động”, chính sách tiền tệ trong nước cũng đối mặt với thách thức khi phải xử lý hài hòa nhiều mục tiêu được xem là mâu thuẫn nhau. Các mục tiêu hướng đến bao gồm hỗ trợ kinh tế phục hồi nhưng vẫn bảo đảm kiểm soát lạm phát trong bối cảnh chỉ số này trên toàn cầu tăng cao; giữ ổn định mặt bằng lãi suất đồng thời giảm áp lực mất giá mạnh của tiền đồng; vừa giữ an toàn hệ thống ngân hàng, vừa bảo đảm nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế, triển khai các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn.
Theo các chuyên gia kinh tế, Ngân hàng Nhà nước đang phải “chèo lái” sự cân bằng trong một bối cảnh khó khăn, vừa kiềm chế lạm phát, tránh tăng trưởng bị giảm tốc mạnh khi thị trường bất động sản gặp nhiều khó khăn. Do vậy, để chính sách tiền tệ đa mục tiêu đạt hiệu quả, cần những chính sách bổ sung khác làm “trợ lực”; trong đó, giải pháp quan trọng được nhắc đến nhiều nhất là tăng cường giải ngân, hoàn thiện các cơ chế, tháo gỡ vướng mắc cần thiết để đẩy mạnh đầu tư công.
Việc giải ngân vốn đầu tư công được kỳ vọng giúp đưa dòng tiền mới vào nền kinh tế, từ đó lan tỏa và tạo tác động tích cực.
Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, trên thực tế, chính sách tiền tệ đa mục tiêu tác động không nhỏ đến các tổ chức tín dụng. Còn theo Tiến sĩ Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, chính sách tiền tệ cũng đã chuyển trạng thái từ “chặt chẽ, thận trọng” sang “nới lỏng thận trọng, hỗ trợ tăng trưởng”.
Các chuyên gia cũng nhận định, việc nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ còn phụ thuộc vào kết quả tái cơ cấu kinh tế để nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động cho doanh nghiệp. Không chỉ có chính sách tiền tệ mà các chính sách tái cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực hoạt động, cạnh tranh cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, chính sách thúc đẩy phát triển thị trường vốn, giảm sự phụ thuộc vào vốn tín dụng ngân hàng, giảm áp lực thực hiện đồng thời nhiều mục tiêu mâu thuẫn nhau trong điều hành đều có vai trò quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả chính sách tiền tệ.
Về điều hành chính sách tiền tệ từ nay đến cuối năm, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà cho biết, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến tiền tệ trong nước, quốc tế, dự báo lạm phát và lãi suất thị trường để điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu chính sách tiền tệ. Đồng thời có giải pháp khuyến khích các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.
Nhằm tiếp tục hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân, ngày 16-6, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ban hành quyết định giảm lãi suất điều hành, có hiệu lực từ ngày 19-6. Theo đó, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với tổ chức tín dụng giảm từ mức 5,5%/năm xuống 5%/năm; lãi suất tái cấp vốn giảm từ mức 5%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ mức 3,5%/năm xuống 3%/năm. Trong khi đó, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giữ nguyên ở mức 0,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ mức 5%/năm xuống 4,75%/năm...
Gửi phản hồi
In bài viết