Sự nhạy cảm của thầy Then
“Then của người Tày mượn lời ca, tiếng đàn cùng chùm xóc nhạc dẫn đường đến với các đấng siêu nhiên để thỉnh cầu hay cảm tạ. Ông Then, bà Then giống như người tiên với cây đàn tính trên tay gảy những khúc nhạc, cất lên những lời ca gửi theo mây theo gió, vang đến tận trời xanh. Nếu bỏ đi yếu tố mê tín dị đoan thì then là nghi lễ cầu an cho dân chúng”. Trong thanh âm vang vọng tiếng đàn tính, giọng của ông Lương Long Vân hào sảng như thế!
Để trở thành thầy then phải có “căn” then hoặc gia đình, dòng dõi có người làm then. Những người có “căn” then thường rất nhạy cảm. Đó là có khả năng về đàn hát, nhảy múa, có khả năng liên lạc với thần linh bằng tâm thức, giao cảm đặc biệt.
Ông Lương Long Vân lớn lên trong lời then cọi của làng bản ở xã Trùng Khánh (Na Hang). Ngay từ nhỏ, ông thường cùng anh trai đi theo các ông thầy Quan làng để học hỏi, giúp việc và trở thành đệ tử. Với sự đam mê học hỏi, ông đã nhanh chóng học thuộc lòng, hát suốt đêm nhiều cung then, bài pựt trước sự ngỡ ngàng của các bậc cao niên.
Ông Lương Long Vân bên cây đàn tính.
Duyên nghiệp làm thầy then chỉ đến với những ai có tấm lòng, đức độ hướng về tổ tiên, nghĩ nhiều cho dân bản. Ngoài 40 tuổi, thầy Then Lương Long Vân đã có thể làm then, làm pựt một cách thuần thục. Ông bảo, lẩu Then hay lẩu pựt đều giống nhau về hình thức nhưng khác nhau về quá trình diễn xướng. Đồ nghề phục vụ cho các nghi lễ trong then và pựt cũng có nhiều điểm khác. Thầy then là phải có đàn, làm pựt không có đàn. Làm thầy pựt chỉ có mỗi cái chuông thôi, gọi tất cả ở trên trời xuống. Làm then vất vả hơn, vừa hát, vừa đàn, còn chân xóc nhạc.
Trong cộng đồng người Tày rất coi trọng thầy then vì để làm được then thì thầy phải có trí nhớ, hiểu biết văn hóa phong phú. Với nụ cười hiền hậu, ông Vân nhẹ nhàng lý giải rằng, ngay trong then nghi lễ có các đường then khác nhau. Then chữa bệnh khác then tìm vía, then nối số cũng khác nhau không phải đường nào cũng giống đường nào. Ngay cả then cầu an, then cống slử vào mỗi thời điểm, mỗi hoàn cảnh gia đình sẽ có lời hát, lời cúng cầu nguyện riêng.
Cả một đời gắn bó với then, nghệ nhân Lương Long Vân có một lối hát rất đặc biệt, tuy không náo nhiệt, tưng bừng như các dòng then khác mà rất êm ả, nhẹ nhàng, thong dong đầy chất trữ tình. Ai đã được nghe ông hát đều cảm nhận tiếng ca được cất lên từ tận sâu thẳm tâm hồn.
“Nhất slư tha, nhì gia giuốc”
Đã xa Trùng Khánh (Na Hang) lâu rồi thế nhưng khi nhắc đến quê hương, nhắc đến then, pụt, cọi, lượn… ông Lương Long Vân như được trở về thời trai trẻ. Nơi có những đêm hội làng, lễ hội Lồng Tông, tiếng đàn tính ngân vang… Năm 2017, bước sang tuổi 90, ông vinh dự được phong tặng nghệ nhân dân gian và ông trở thành “kho báu sống” để nhiều nhà nghiên cứu văn hóa Tày đến học hỏi, lĩnh hội kiến thức.
Ông bảo, người Tày quê ông rất hiếu học, ngay từ nhỏ, người già bảo ban con trẻ rằng “Nhất slư tha, nhì gia giuốc” (Nhất chữ nghĩa, nhì thuốc thang), “Noưng shec Tay bẳng noưng thoong khôn” (một cuốn sách Tày bằng một túi khôn).
Ngay từ khi còn nhỏ, ông Lương Long Vân luôn tâm niệm, mỗi cuốn sách chứa đựng lời lẽ được chắt lọc bao đời, cha ông mình trân quý, gìn giữ thì mình cũng phải tìm cách để nó tự thấm, chạy vào từng mạch máu, hòa vào từng thớ thịt. Đó như là một phần của cơ thể, nếu bị mai một, lãng quên thì ông đau như bị cây gai, mũi kim đâm vào da thịt. Thế nên đến nay sống gần 1 thế kỷ mà ông Vân vẫn thuộc làu những câu truyện cổ, thơ Tày dài hàng nghìn câu như “Biooc lả”, “Toọng tương”, “Tống trân cúc hoa”, “Phạm Tải Ngọc Hoa”, “Lưu Đài Hán Xuân”…
Nghệ nhân dân gian Lương Long Vân và các nhà nghiên cứu văn hóa Tày trao đổi về sách cổ.
Ông giải thích, trong hành trình dài, người Tày qua nhiều thế hệ đã sáng tác được hàng loạt các tác phẩm dân gian như truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, các bài văn Quan làng dùng trong nghi lễ cưới xin, các bài then dùng trong nghi lễ như lễ cấp sắc, cầu mùa, cầu an, đặc biệt bài thuốc dân gian, lời giáo huấn răn dạy con người… Tất cả đều được tổ tiên viết bằng chữ Nôm Tày dưới dạng văn vần thất ngôn dài hàng nghìn câu.
Với mong muốn thế hệ sau có thể dễ dàng mở được “túi khôn” người Tày, nhiều năm qua ông Lương Long Vân tỉ mẩn ghi chép, biên dịch những cuốn sách cổ. Đó là kho tàng tri thức bao đời, người trước trao truyền thì người sau nâng niu trân trọng để mạch nguồn văn hóa chảy mãi.
Hiện nay ông đã biên dịch, ghi chép hàng chục cuốn sách về nghi lễ thờ cúng, bài khấn; lời khuyên răn dạy bảo, cách đối nhân xử thế, đạo làm con, đạo vợ chồng; bài thuốc dân gian, mẹo vặt hay chữa bệnh.
Bên cạnh đó, ông cùng nhà nghiên cứu văn hóa Tày là ông Tống Đại Hồng, Ma Văn Đức biên dịch những tích truyện xa xưa, văn hát quan làng, hát then... Các cuốn sách được xuất bản như “Văn Quan làng Tuyên Quang”, “Một số cung Then cổ chữ Nôm - Tày”… Trong đó, cuốn sách “Văn Quan làng Tuyên Quang” dày 410 trang là một tư liệu chuyên biệt về hát Văn Quan làng đầu tiên của tỉnh Tuyên Quang. Công trình nghiên cứu đoạt Giải thưởng Tân Trào năm 2019.
Nhà nghiên cứu văn hóa Tống Đại Hồng chia sẻ, người Tày có câu “trong nhà có người già như có được cả kho báu”, quả thực nghệ nhân dân gian Lương Long Vân là một trong những nghệ nhân cao tuổi nhưng thông tuệ hiếm có trong cộng đồng người Tày.
Chia tay chúng tôi, ông Lương Long Vân vui vẻ, khoan khoái cầm trên tay cây đàn tính, nghệ nhân vừa đàn vừa hát cho chúng tôi nghe. Đôi bàn tay in đậm vệt thời gian vẫn lả lướt trên dây đàn tính, khuôn mặt phúc hậu, ánh mắt ông nhìn về phía xa xăm. Cứ thế, những lời then say đắm, du dương được cất lên, bay cao, bay xa lan tỏa văn hóa Tày khắp nẻo...
Gửi phản hồi
In bài viết