Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đổi mới

- Đội ngũ cán bộ là nhân tố quyết định hiệu quả hoạch định, bổ sung và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh luôn là công việc hệ trọng hàng đầu của Đảng, được thể hiện bắt đầu từ tư duy lý luận của Đảng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đội ngũ cán bộ, cử tri tại quận Đống Đa, Hà Nội_Ảnh: TTXVN.

Tư duy lý luận về xây dựng đội ngũ cán bộ từ Đại hội VI đến Đại hội X

Từ khi bắt đầu khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước đến trước Đại hội lần thứ XI, Đảng ta đã có bước chuyển tư duy rất quan trọng về xây dựng đội ngũ cán bộ.

Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ trong hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đề ra chủ trương: Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo, quản lý. Tuy tại Đại hội VI chưa chính thức đưa ra quan điểm cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, nhưng trong tư tưởng chỉ đạo đã phản ánh được khá rõ vị trí then chốt của cán bộ và công tác cán bộ: “Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng”(1).

Theo quan điểm của Đại hội VI, đổi mới công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ có nghĩa là đánh giá, lựa chọn, bố trí cán bộ đi đôi với đào tạo, bồi dưỡng để có một đội ngũ cán bộ có đủ những tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực lãnh đạo, quản lý. Một khi người làm công tác cán bộ kém về phẩm chất đạo đức, có mục đích không trong sáng, thì công tác cán bộ không sớm thì muộn cũng mắc phải khuyết điểm, sai lầm. Khi tâm và trí của những người làm công tác cán bộ đã bị hoen ố, vẩn đục thì không thể giúp Đảng lựa chọn, xây dựng một đội ngũ cán bộ đủ mạnh, đức độ, tài năng, ngang tầm nhiệm vụ. Do đó, Đảng ta nhấn mạnh: “Muốn đổi mới đội ngũ cán bộ, trước hết phải đổi mới công tác cán bộ và đội ngũ những người làm công tác cán bộ”(2).

Để đổi mới công tác cán bộ, Văn kiện Đại hội VI của Đảng vạch rõ:

Về quan điểm chỉ đạo: Phải từ lợi ích chung của cách mạng, từ chính sách cán bộ thống nhất của Đảng mà lựa chọn cán bộ một cách công minh. Mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, đầu óc địa vị tư lợi, chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa cục bộ và bệnh quan liêu trong công tác cán bộ đều gây ra những hậu quả xấu đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và sự đoàn kết trong Đảng.

Về định hướng giải pháp, Đại hội chủ trương(3):

1- “Đổi mới đội ngũ cán bộ bao hàm cả ý nghĩa trẻ hóa... Có khắc phục được quan niệm đẳng cấp, tôn ti theo kiểu phong kiến còn khá nặng nề, chúng ta mới có thể phát hiện và cất nhắc được những cán bộ trẻ ưu tú”.

2- “Chuẩn bị đội ngũ kế tục là nhiệm vụ thường xuyên của các tổ chức đảng và phải được tiến hành theo quy hoạch... Nhân tài không phải sản phẩm tự phát, mà phải được phát hiện, bồi dưỡng công phu. Nhiều tài năng có thể mai một nếu không được phát hiện và sử dụng đúng chỗ, đúng lúc”.

3- “Chống tệ quan liêu, cửa quyền trong công tác lựa chọn, bố trí cán bộ”.

4- “Có cơ chế quản lý cán bộ đúng thì sự đánh giá cán bộ mới chính xác, mới phát hiện, đề bạt được cán bộ tốt, thay đổi những người xấu và yếu kém”.

Đứng trước biến động rất phức tạp của tình hình thế giới trong những năm 80, 90 của thế kỷ XX, trước yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc đổi mới, Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng về cán bộ, nhất là các vị trí hạt nhân lãnh đạo có kinh nghiệm, có bản lĩnh trong đội ngũ cán bộ; coi đây là điều kiện quan trọng hơn hết để đổi mới đúng hướng, vì sự phát triển của tương lai, tránh được đổ vỡ, sai lầm.

Đại hội VII chỉ rõ: “Công cuộc đổi mới là một dịp sàng lọc và thử thách đội ngũ cán bộ”. Do đó, “Đảng phải sáng suốt và tỉnh táo, có quan điểm khách quan và toàn diện, phải thông qua hoạt động thực tiễn, lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo chủ yếu để đánh giá đúng cán bộ. Kịp thời phát hiện những tiềm năng cán bộ trẻ; đồng thời, biết sử dụng có hiệu quả những cán bộ lớn tuổi, từng trải, có kinh nghiệm. Phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa các thế hệ cán bộ, vừa phù hợp với yêu cầu đổi mới hiện nay vừa chuẩn bị cho sự phát triển tương lai của đất nước”(4).

Đổi mới là sự nghiệp mới mẻ, công tác cán bộ cần được tiến hành với tư duy mới, đòi hỏi phải có đánh giá, rút kinh nghiệm, nghiên cứu, bồi đắp, phát triển tư duy lý luận và năng lực chỉ đạo thực tiễn. Với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) đã chỉ rõ: Công tác cán bộ vẫn là một khâu yếu. Đội ngũ cán bộ nhìn chung chưa ngang tầm đòi hỏi của nhiệm vụ. Ở nhiều nơi vẫn có tình trạng hẫng hụt, lúng túng trong bố trí hạt nhân lãnh đạo. Thiếu những cán bộ giỏi và chuyên gia đầu ngành về công tác đảng, về quản lý nhà nước,... Để khắc phục tình trạng này, Hội nghị chủ trương tiến hành đồng thời nhiều giải pháp, song “trước hết là đổi mới quan niệm và phương pháp công tác cán bộ trong đánh giá, tuyển chọn, sử dụng, bố trí, nhất là cán bộ chủ chốt”. Tiếp đến phải “khảo sát, đánh giá lại toàn bộ đội ngũ cán bộ hiện có trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch cán bộ”, “dân chủ hóa công tác cán bộ”; “đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch”; “cán bộ phải thường xuyên rèn luyện”; “cải tiến hệ thống chính sách, chế độ đãi ngộ cán bộ”(5).

Công tác cán bộ qua 10 năm đổi mới (1986 - 1996) đã trở thành một động lực quan trọng góp phần đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, chính thức bước vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong giai đoạn mới, tại Đại hội VIII (tháng 6-1996), Đảng khẳng định tình hình và nhiệm vụ mới đặt ra rất nhiều yêu cầu cho công tác cán bộ. Lần đầu tiên trong thời kỳ đổi mới, Đảng chủ trương “Sớm xây dựng chiến lược cán bộ của thời kỳ mới”(6).

Đảng ta cũng nhận thức đầy đủ hơn về đối tượng, phạm vi công tác cán bộ của Đảng; không chỉ bao gồm xây dựng cán bộ trong các tổ chức, các cơ quan Đảng, mà còn “phải lo cán bộ cho cả hệ thống chính trị, trên tất cả các lĩnh vực”. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; đồng thời, phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị trong công tác cán bộ. Đại hội nhấn mạnh: “Bố trí và sử dụng cán bộ phải bảo đảm đúng tiêu chuẩn và sở trường. Đề bạt, bổ nhiệm đúng lúc, giao việc đúng tầm” và nhất là “thay thế kịp thời khi cần thiết”. Đây cũng là Đại hội đầu tiên của Đảng chủ trương thực hiện “bổ nhiệm có thời hạn” và “có chế độ cho cán bộ được từ chức hoặc rút chức để nhận công việc thích hợp”(7).

Cụ thể hóa quyết tâm chính trị của Đại hội VIII về xây dựng đội ngũ cán bộ, Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII (tháng 6-1997) đề ra Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khẳng định: “Cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”(8). Việc nhận thức cán bộ là “khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt” là sự nâng tầm tư duy của Đảng đối với công tác cán bộ; mở đường, thúc đẩy công tác lý luận của Đảng đi sâu nghiên cứu về cán bộ và công tác cán bộ trong điều kiện mới.

Tiếp cận vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ trong mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, đặt trong chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) đề ra mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực, hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân. Về tiêu chí chủ yếu trong đánh giá cán bộ, nếu Đại hội VII chủ trương lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo chủ yếu thì Đại hội IX có sự bổ sung, phát triển rất quan trọng: “Lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đó chủ yếu”(9).

Bám sát mục tiêu và các tiêu chí đã xác định, Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) đánh giá, bên cạnh một bộ phận cán bộ phát huy tốt vai trò tiền phong gương mẫu, tận tụy với công việc, được nhân dân tín trọng thì “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng..., vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước. Thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu nhân dân ... làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng”; Đại hội nhận định: “Đó là nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng và chế độ”(10).

Do đó, khi tổng kết bài học về xây dựng Đảng qua 20 năm đổi mới, Đại hội X của Đảng yêu cầu: “Đảng phải chăm lo xây dựng rèn luyện cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh, phẩm chất chính trị, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn để hoàn thành nhiệm vụ. Phải tạo sự chuyển biến thực sự và đồng bộ trong công tác cán bộ trên tất cả các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và chính sách. Đặc biệt coi trọng xây dựng cán bộ chủ chốt, trọng dụng nhân tài”(11).

Đại hội X của Đảng đã bổ sung tiêu chí cán bộ trong giai đoạn mới, trong đó nhấn mạnh: Ngoài những tiêu chí như trước đây, cán bộ phải là những người “kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo..., tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”(12). Đại hội khẳng định nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu các cấp, các ngành của hệ thống chính trị. Một điểm mới của Đại hội X là chủ trương mở rộng quyền tiến cử và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án nhân sự trong bầu cử và bổ nhiệm cán bộ... “thực hiện cơ chế đảng viên và nhân dân tham gia giám sát cán bộ và công tác cán bộ”(13).

Sự phát triển tư duy lý luận về xây dựng đội ngũ cán bộ từ Đại hội XI đến nay

Từ Đại hội XI, tư duy của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tiếp tục được phát triển trên những mặt trọng yếu (rõ nhất là về quy hoạch, tạo nguồn đào tạo, bổ nhiệm, lấy phiếu tín nhiệm, thay thế đối với cán bộ cấp chiến lược và cán bộ chủ chốt các cấp) nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Vấn đề quy hoạch cán bộ đã được đề cập ở nhiều nhiệm kỳ, song trước đây thường được hiểu là quy hoạch ở từng cấp để tạo nguồn cho cấp mình và dự nguồn cho cấp trên. Từ Đại hội XI (tháng 1-2011), văn kiện Đảng mới chính thức xác lập chủ trương “xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược”(14). Chủ trương này mở ra một giai đoạn mới trong công tác cán bộ của Đảng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Về bổ nhiệm và thay thế cán bộ, thấu triệt phương châm coi cán bộ là khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt, Đại hội XI nêu rõ quan điểm không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa. Vấn đề thay thế cán bộ và chế tài xử lý cán bộ cũng được đặc biệt quan tâm: “Kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, uy tín giảm sút. Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương”(15).

Tiếp nối chủ trương đó, khi lựa chọn ba vấn đề cơ bản và cấp bách về xây dựng Đảng, Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (tháng 12-2011) đã dành riêng một nội dung nói về vấn đề cán bộ. Hội nghị chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Hội nghị nhấn mạnh nội dung “triển khai thực hiện quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016 - 2020; tích cực tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo cán bộ tham mưu, chuyên gia cấp chiến lược”(16).

Theo chủ trương của Hội nghị, nhân sự được xem xét, bổ nhiệm là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ trì cấp trên phải qua chức vụ quản lý, chủ trì cấp dưới. Tại Hội nghị này, lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, thực hiện lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể. Theo đó, “những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ cần được xét, cho thôi giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác”(17).

Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016) nêu các mối quan hệ có tính nguyên tắc cần được thể chế hóa trong công tác cán bộ, đó là: 1- Quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; 2- Giữa quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết trong công tác cán bộ; 3- Giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; 4- Giữa đức và tài; 5- Giữa kế thừa và phát triển; 6- Giữa sự quản lý thống nhất của Đảng với phát huy đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị; 7- Giữa  thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể; 8- Giữa phân cấp, phân quyền và kiểm tra, giám sát, kiểm soát để thực hiện thống nhất, đồng bộ trong Đảng và hệ thống chính trị.

Trên cơ sở đánh giá khoa học, khách quan về công tác cán bộ sau 30 năm đổi mới, khẳng định trong lĩnh vực này đã có những bước tiến rất quan trọng, Đại hội XII cũng chỉ ra rằng: “Việc đổi mới công tác cán bộ chưa có đột phá lớn... Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược chưa được tập trung xây dựng. Chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu, tư vấn cấp chiến lược”(18). Từ đó, Đảng ta nhấn mạnh cần: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ”(19). Trên tinh thần đó, ngày 19-5-2018, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” - một Nghị quyết với nhiều đổi mới quan trọng, có tính đột phá về công tác cán bộ.

Điểm mới của Nghị quyết số 26-NQ/TW là đã đưa ra quan niệm và chỉ rõ vị trí, vai trò của cán bộ cấp chiến lược. Đây là những cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; giữ vai trò cực kỳ quan trọng, quyết định đến sự thành bại của cách mạng; là lực lượng nòng cốt, vận hành của hệ thống chính trị; đề xuất những ý tưởng mới, sáng tạo, tư duy chiến lược, dài hạn; hoạch định các chủ trương, đường lối, chính sách lãnh đạo, quản lý ở tầm vĩ mô của đất nước. Theo đó, ngày 2-1-2020, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 214-QĐ/TW, Quy định “Khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”.

Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) tiếp tục khẳng định sự chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược gắn với xây dựng người đứng đầu các tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị. Ngoài các tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể, đã nêu trong Quy định số 214-QĐ/TW, Đại hội XIII của Đảng đề cập tới một số tiêu chuẩn đối với cán bộ cấp chiến lược.

Về tư tưởng chính trị: Cán bộ chiến lược phải có ý chí, “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(20); kiên quyết đấu tranh phòng, chống có hiệu quả chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ, bè phái, những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Về đạo đức, lối sống: Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược phải thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình; luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng; tự mình phòng, tránh và đấu tranh có hiệu quả với mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, cơ hội, cục bộ, bè phái, mất đoàn kết nội bộ; “nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng”(21).

Về lựa chọn, sử dụng cán bộ, Đại hội XIII nêu rõ: “Không để lọt những người không xứng đáng, không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhưng cũng không để sót những cán bộ thực sự có đức, có tài”(22). Việc này phải tiến hành đồng thời với quá trình xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài; chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí: Đảng ta coi đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một giải pháp hữu hiệu trong xây dựng, sàng lọc đội ngũ cán bộ. Đại hội XIII xác định phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong Đảng và hệ thống chính trị. Trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nhân dân; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đảng khẳng định phải có những giải pháp để cán bộ “không muốn”, “không thể”, “không dám” và “không cần” tham nhũng.

Để cán bộ “không muốn” tham nhũng, cần đẩy mạnh giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất về ý chí và hành động trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí của cán bộ, đảng viên và nhân dân, trước hết là sự gương mẫu, quyết liệt của người đứng đầu cấp ủy, địa phương, cơ quan, đơn vị. Kiên trì giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức về đức tính liêm khiết, xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng, lãng phí.

Để cán bộ “không thể” tham nhũng, cần “Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện và kịp thời khắc phục những bất cập trong quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng, lãng phí; nhất là các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong kiểm tra, phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí và bảo vệ người tích cực đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm những người lợi dụng chống tham nhũng để vu khống, gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ. Kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt; từ đó hình thành cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để tiến tới không thể tham nhũng”(23).

Để cán bộ “không dám” tham nhũng, phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán; đẩy mạnh điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ án, vụ việc tham nhũng; nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng. “Kịp thời xử lý, thay thế cán bộ lãnh đạo quản lý, có biểu hiện tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm những cán bộ nhũng nhiễu, gây phiền hà người dân, doanh nghiệp. Tiếp tục kiện toàn bộ máy, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị chuyên trách có chức năng phòng, chống tham nhũng. Phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động của thanh tra, kiểm toán Nhà nước, kiểm tra Đảng với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử...”(24).

 Để cán bộ “không cần” tham nhũng, phải “Tiếp tục đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập và có chính sách nhà ở, bảo đảm cuộc sống để cán bộ, công chức, viên chức yên tâm công tác”(25).

Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII đã thông qua Đề án thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đề án đã trình bày đầy đủ, đúng đắn, có cơ sở lý luận và thực tiễn về sự cần thiết, căn cứ và nguyên tắc thành lập ban chỉ đạo cấp tỉnh; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, quan hệ công tác của ban chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cũng đã dự thảo các văn bản liên quan. Quyết định này trực tiếp góp phần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tiếp tục khẳng định quyết tâm chính trị và hành động quyết liệt của Đảng trong ngăn chặn, giảm thiểu, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nam Định_Ảnh: TTXVN

Một số phương hướng phát triển trong tình hình mới

Theo V.I. Lê-nin: “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh... đó là then chốt; nếu không thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”(26). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng huấn thị: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(27), “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”(28). Thấm nhuần tư tưởng đó, trong tiến trình đổi mới, Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ về vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ - khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt. Tư duy lý luận của Đảng về xây dựng cán bộ đã có sự phát triển đồng bộ trên các mặt, có thời điểm mang tính đột phá; đặc biệt, đã xác định rõ hơn yêu cầu, tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ; quy định ngày càng rõ trách nhiệm người đứng đầu và kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ; đồng thời, quan tâm hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc. Quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đổi mới có ý nghĩa to lớn trên nhiều phương diện.

Một là, tư duy lý luận của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đổi mới là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng phát triển đúng hướng, có hiệu quả; là cơ sở trực tiếp để Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng quán triệt, cụ thể hóa, vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ phù hợp với đặc điểm tình hình của từng giai đoạn, từng lĩnh vực, địa phương, cơ quan, đơn vị.

Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ theo tư duy mới đã trực tiếp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và sự trong sạch, vững mạnh của Đảng, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986 đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước đang phát triển, đang trên đà hiện đại hóa; kinh tế tăng trưởng khá nhanh trong nhiều năm; đời sống nhân dân có bước phát triển lớn; tình hình chính trị giữ ổn định; bản sắc văn hóa được bảo vệ, phát huy; môi trường đất nước an toàn; quốc phòng, an ninh được tăng cường; đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đại hội XIII của Đảng đánh giá tổng quát: Chúng ta “đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới... Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(29).

Ba là, sự phát triển tư duy lý luận gắn với thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ là cơ sở để củng cố, giữ vững niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và chế độ, đấu tranh với những quan điểm thù địch, sai trái hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới. Niềm tin của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên đã và đang tiếp tục là điều kiện để tăng cường sức mạnh của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, để thực hiện thành công những nhiệm vụ khổng lồ của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Đại hội XIII của Đảng nhận định khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng tiếp tục được củng cố, tăng cường; niềm tin của nhân dân đối với Đảng được nâng lên, tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới.

Để tiếp tục phát triển tư duy lý luận của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình mới, cần chú trọng một số vấn đề sau đây:

Thứ nhất, phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong đổi mới tư duy lý luận xây dựng của Đảng về đội ngũ cán bộ. Tổ chức có hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động các tổ chức trong hệ thống chính trị; phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên. “Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên”(30).

Thứ hai, đổi mới tư duy lý luận về xây dựng đội ngũ cán bộ phải kiên trì, thận trọng, thường xuyên, toàn diện, trong từng giai đoạn phải có tính trọng điểm. Xây dựng đội ngũ cán bộ là một nội dung, một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, lâu dài trong xây dựng Đảng và đổi mới chính trị, rất nhạy cảm vì nó tác động đến tư tưởng chính trị, đến tổ chức, nhân sự, con người trong Đảng và cả hệ thống chính trị, do đó, phải kiên trì, thận trọng, thường xuyên, toàn diện. Tuy nhiên, trong từng giai đoạn phải có tính trọng điểm, với bước đi chắc chắn. Trong tình hình mới, cần thực hiện tốt các giải pháp đột phá: 1- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, nhất là công tác tổ chức, cán bộ; 2- Phát huy dân chủ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường đổi mới sáng tạo trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ; 3- Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quyền lực(31).

Thứ ba, phải gắn phát triển tư duy lý luận về xây dựng đội ngũ cán bộ với phát triển tư duy về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Xây dựng đội ngũ cán bộ là vấn đề then chốt của xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị. Xây dựng được đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực, ngang tầm nhiệm vụ sẽ là cơ sở, tạo động lực thúc đẩy xây dựng, phát triển đường lối của Đảng, tiến hành công tác tư tưởng có hiệu quả và xây dựng tổ chức đảng và hệ thống chính trị vững mạnh. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh sẽ nâng cao uy tín của Đảng và hệ thống chính trị, tạo ra những yêu cầu, nhiệm vụ và môi trường giáo dục, đào tạo, rèn luyện, sàng lọc đội ngũ cán bộ của Đảng. Trong quá trình đổi mới, Đảng đã nhận thức và giải quyết các mối quan hệ này. Trong giai đoạn mới càng phải nhận thức sâu sắc và giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng các mặt khác trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ở nước ta./.

TS. TRẦN VĂN RẠNG

Thượng tá, Khoa Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

-------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Phần I), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 129
(2), (3), (4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Phần I), Sđd, tr. 129 - 130, 130 - 131, 389 – 390
(5), (6), (7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Phần I), Sđd, tr. 554 - 555, 721, 723
(8) Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 66
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Phần II), Sđd, tr. 111
(10), (11), (12), (13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Phần II), Sđd, tr. 487, 497, 508, 510
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 261
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, 2011, tr. 262
(16), (17) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 31, 32
(18), (19) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 194, 206
(20), (21), (22) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 230, 237, 244
(23), (24), (25) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, 2021, t. II, tr. 251 - 252, 252 - 253, 253
(26)  V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1974, t. 44, tr. 499
(27), (28) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 309, 313
(29) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 25
(30) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 192
(31) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 257

Theo Tạp chí Cộng sản điện tử

Tin cùng chuyên mục