Ông già phù thủy
(HGĐT)- Chắc trước đây ông cũng có tên, nhưng từ khi ông lưu lạc về làng tôi thì người ta chỉ gọi biệt danh ông là “Ông già phù thủy”. Chẳng biết ai là người đầu tiên gọi ông như vậy, nhưng hầu như ai cũng gọi thế, và ông già cũng mặc nhiên thừa nhận cái tên đó một cách vui vẻ.
Kể ra mọi người gọi như vậy cũng chẳng có gì sai, vì ông rất hay biểu diễn những màn phép thuật ở chợ (chúng tôi gọi là “phép thuật” vì ngườibình thường khó lòng mà làm được như vậy). Ông có thể ăn được thủy tinh và mảnh sành. Nhìn ông cầm chiếc chén hay chiếc cốc cắn ăn một cách ngon lành ai cũng lắc đầu lè lưỡi vì thích thú và nể phục. Ông có thể phù phép biến than củi thành quả dưa chuột, khiến nhiều người ăn xong “dưa” thì trong miệng đầy bột than đen nhẻm! Ngoài ra ông còn có biệt tài làm những trò ảo thuật. Với đôi tay “phù thủy”, ông có thể biến những tờ giấy trắng thành tiền, kéo bộ bài tú lơ khơ thành chiếc lò xo, hoặc xé một tờ báo thành bốn mảnh rồi phẩy đánh “phật” một cái lại làm cho tờ báo lành như cũ... Thỉnh thoảng ông còn trình diễn trò đút chiếc cán thìa dài ngập vào lỗ mũi, hoặc đập vỏ chai bia vào đầu đến vỡ tan mà chẳng hề hấn gì...
Không ai đoán được tuổi của ông. Nhưng có lẽ ông phải ngoài bảy chục, vì râu tóc đã bạc trắng, da săn chắc và đỏ như đồng. Thân hình ông khá cao lớn nhưng lưng không còng và rất nhanh nhẹn. Ông già phù thủy không có gia đình, chẳng có vợ con, không có nơi ở cố định, cũng chẳng có ai thân thích. Ông đi khắp nơi này nơi khác, thoắt ẩn, thoắt hiện đúng như phù thủy thật. Đối với người lớn ở làng thì sự có mặt hay vắng mặt của Ông già phù thủy hầu như chẳng ai để ý, nhưng bọn trẻ con chúng tôi thì khác. Vắng ông chúng tôi buồn, có ông chúng tôi vui. Những trò biểu diễn mang tính ma thuật của ông làm lũ trẻ con ở làng xem mãi mà không chán. Ông còn có biệt tài kể chuyện tiếu lâm, chuyện vui, chuyện hài hước. Nhưng ông chỉ kể cho bọn trẻ con nghe chứ không bao giờ kể trước mặt người lớn. Nghe chuyện ông kể chúng tôi cười như nắc nẻ, ôm bụng mà cười, chảy nước mắt mà cười. Cười đến quên cả đói và quên hết mọi mệt nhọc, vất vả, lo lắng, ưu phiền. Tôi nhớ nhất là chuyện “Ông còng và ông mù”. Chuyện thì dài, nhưng xin tóm tắt như sau: Hai ông cùng ngồi ăn cơm. Ông còng (tỉnh mắt) gắp toàn xương bỏ vào bát ông mù. Ông mù ăn bị hóc trợn mắt lên, bực mình liền đấm một quả như trời giáng vào chiếc lưng ông còng đến duỗi ra. Từ đó ông mù mở được mắt nên hết mù và ông còng thẳng được lưng nên hết còng! Câu chuyện chỉ có thế, nhưng ông kể quá hay làm cho chúng tôi cứ mỗi khi nghĩ đến lại cười phá lên, đến nỗi đã không dưới một lần bị cô giáo đuổi ra khỏi lớp học vì mất trật tự!...
Ông già phù thủy luôn làm cho chúng tôi vui, nhưng chẳng hiểu sao người lớn lại cấm chúng tôi đến với ông. Mẹ tôi một lần dặn dò:
- Anh em mày phải tránh xa Ông già phù thuỷ. Người như thế chẳng thể tin được đâu!
- Vì sao cơ ạ? - Tôi hỏi mẹ.
- Vì ông ta là người không bình thường.
- Nhưng con thấy ông ấy tốt và quí trẻ con lắm chứ có làm hại ai đâu? Ông ấy còn rất giỏi nữa.
Mẹ tôi nghiêm mặt:
- Mấy cái màn ma thuật ấy thì hay ho nỗi gì. Đó chỉ là trò lừa thiên hạ. Nếu tốt sao ông ấy không ở nhà với gia đình, vợ con mà phải đi lang thang?
Nghe những lời mẹ nói tôi cũng thấy băn khoăn nhưng không thể lý giải được, đành hứa với mẹ là sẽ ít gặp Ông già phù thủy. Tuy hứa như vậy, nhưng hình như Ông già phù thủy có một ma lực nào đó cuốn hút lũ trẻ con chúng tôi, khiến đứa nào cũng lén đi gặp ông. Gặp ông nhiều chúng tôi thấy người lớn cảnh giác hơi thừa, bởi ông già không làm bất cứ điều gì xấu, ít nhất là trước mặt bọn trẻ con chúng tôi. Một lần tôi hỏi:
- Ông có thể biến giấy thành tiền, sao ông không làm nhiều nhiều để tiêu mà phải đi biểu diễn ảo thuật kiếm từng xu cắc?
Ông nhìn tôi, nói nghiêm khắc:
- ảo thuật là để biểu diễn mua vui chứ không phải để lừa đảo. Trước đây khi ông học những trò này thầy của ông đã dạy như vậy. Thầy còn bảo khi biểu diễn không được đòi tiền người xem, nhưng nếu người xem tự nguyện cho tiền thì nhận, để lấy cái mà sống, để mà mua vui cho thiên hạ.
***
Bẵng đi một dạo vắng Ông già phù thuỷ. Lũ trẻ chúng tôi buồn nẫu ruột nẫu gan, đến nỗi học hành sa sút hẳn. Mọi trò chơi trẻ nhỏthường ngày chẳng thể làm chúng tôi vui hơn. Đứa nọ hỏi thăm đứa kia xem có thấy ông già ở đâu không. Phiên chợ nào chúng tôi cũng kiếm cớ xin bố mẹ cho đi chợ để hi vọng tìm thấy ông. Một đêm tôi mơ gặp Ông già phù thuỷ đang biểu diễn ảo thuật ở chợ Hạ, liền chồm tới gọi. Mẹ tôi hoảng hốt sờ trán, sờ chân tay tôi xem có ốm đau gì không, miệng mẹ lẩm bẩm nói với bố: “Hình như con mình bị Ông già phù thủy ám rồi. Có khi phải tìm thầy giải hạn cho nó thôi!” Bố tôi gắt: “Thầy bùa gì. Con nó nhớ ông ấy thì mơ chứ sao. Trẻ con ở làng này đứa nào mà chẳng nhớ ông ấy!” Nghe bố nói thế tôi mừng suýt khóc. Mỗi lần nhớ ông quá chúng tôi lại rủ nhau túm năm tụm ba ngồi ôn lại những kỷ niệm về ông. Tôi còn nhớ, sau khi trình diễn trò đút cán thìa dài vào lỗ mũi, ông dặn chúng tôi: “Thực ra đây là trò ảo thuật. Chiếc cán thìa mà ông cho vào mũi chỉ ngắn một đốt ngón tay, còn chiếc cán thìa dài kia đã được ông đánh tráo khi biểu diễn. Các cháu nhớ đừng bắt chước ông mà đút cán thìa dài vào mũi là chết đấy”. Có những chuyện ông kể về bản thân mà đến nay chúng tôi cũng không biết là thực hay hư. Chẳng hạn chuyện ông vào cửa hàng mậu dịch quốc doanh ăn phở (thời bao cấp). Sau khi ăn gần hết bát thứ nhất, thấy vẫn đói, ông nghĩ ra cách bắt một con ruồi bỏ vào tô phở rồi gọi cô mậu dịch viên đến bắt đền vì trong phở có ruồi! Cô mậu dịch viên sợ ông làm to chuyện liền đền cho ông bát phở khác nhiều thịt hơn. Hoặc như chuyện ông đón xe ô tô tải (cũng thời bao cấp). Khi vẫy mãi chẳng có xe nào dừng cho đi, ông liền nằm vật ra giữa đường như người sắp chết. Người lái xe vội bế ông lên ca bin đưa đi cấp cứu, được nửa đường ông cười ha hả mà rằng: “Tớ đi nhờ xe cậu thôi, có ốm đau gì đâu”. Người lái xe chỉ còn biết lắc đầu cười... Mỗi lần kể xong những chuyện như vậy Ông già phù thủy lại dặn chúng tôi: “Ông kể cho vui chứ các cháu đừng có bắt chước làm theo như vậy nhá!”
Trong lúc chúng tôi gần như hết hi vọng tìm thấy Ông già phù thủy thì ông bất ngờ xuất hiện. Đi theo ông là một thằng nhỏ chừngbảy, tám tuổi. Thằng bé gầy gò, xiêu vẹo, đen đúa và khúm núm. Ông bảo nhặt được nó ở gầm cầu Làng Núng trong lúc nó đã lả đi vì đóivà rét. Người mẹ tâm thần của nó chết cách đó vài hôm, cũng ở gầm cầu này. Khi dân làng mang xác mẹ nó đi chôn thì nó không ở đó, vìlúc ấy nó đang đi xin thức ăn thừa ở các đám cưới mang về cho mẹ. Lúc về gầm cầu chẳng thấy mẹ đâu nó cứ ngồi chờ. Bọc thức ăn trên tay nó thiu chảy nhưng nó vẫn cứ giữ khư khư để phần mẹ, mặc dù nó đói đến chết lả! Ông bế nó chạy đến trạm xá xã cấp cứu. Khi thằng bé khoẻ lại ông dắt nó đi theo mình và dành cho nó mọi thứ mà ông đang có. Hai con người, một già một trẻ, đi lang thang khắp đó đây để kiếm sống qua ngày bằng cái nghề biểu diễn ảo thuật và múa võ ở chợ.
Thấy người lớn cứ ì xèo với ý chê bai Ông già phù thủy mỗi khi gặp hai ông cháu, kiểu như: “ốc không mang nổi mình ốc, lại còn làm cọc cho rêu”..., tôi về hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, Ông già phù thủy nuôi thằng bé kia thì mắc mớ gì mà mọi người cứ ì xèo?
- Miệng người đời mà con - Mẹ tôi giải thích.
- Nghĩa là thế nào hả mẹ?
- Nghĩa là chuyện của người lớn, trẻ con không việc gì phải xen vào! - Mẹ tôi bỗng dưng nổi nóng.
Tôi không dám hỏi thêm mẹ, mặc dù còn nhiều điều chẳng hiểu gì cả. Tôi đành trốn mẹ lẻn sang nhà mấy đứa bạn rủ chúng nó đi tìm Ông già phù thủy để hỏi chuyện.
Đêm trăng vằng vặc. Lũ trẻ chúng tôi ngồi vây quanh Ông già phù thủy trên một tảng đá to ở ghềnh Hoàng Mã háo hức nghe ông kể chuyện cuộc đời đầy sóng gió của mình. Hoá ra ngày xưa ông cũng là một cậu bé lang thang. Bố mẹ cậu bị bệnh dịch tả cướp đi, để lại cậu côi cút trên cõi đời đầy bất trắc. May mà trong lúc lang thang phiêu bạt cậu gặp được một người đàn ông nhân hậu cứu giúp. Người đó chính là thầy dạy phép thuật cho cậu. Nhưng ông thầy đức độ ấy cũng vì nghề mà thiệt mạng. Một gánh xiếc khác vì ghen tức với tài năng của ông đã tìm cách hãm hại. Họ lén cắt một phần dây đu, khiến khi biểu diễn màn đánh đu trên không, dây bị đứt, ông rơi xuống gẫy cổ!
Trăng chui vào một đám mây. Bầu trời bỗng trở nên xám xịt. Nước dưới chân ghềnh Hoàng Mã réo ùng ục. Chúng tôi im lặng nghe Ông già phù thủy kể chuyện ngày xưa bằng cái giọng nghèn nghẹn như đang khóc mà cảm thấy có lỗi, cứ nhìn nhau lấm lét. Gió từ sông Lô thổi vào mát rượi. Trăng ló ra khỏi đám mây và sáng rực lên. Những chiếc lá đa rụng chao đảo rơi xuống mặt sông cứ lấp loá ánh bạc dưới mầu trăng cuối hạ. Nhìn lá đa rơi tôi bỗng nhớ có lần Ông già phủ thủy bảo: “Mỗi lá già rụng xuống là để cho mầm non mới mọc lên”. Bất chợt giọng Ông già phù thủy vang lên sang sảng:
- Thôi không kể chuyện buồn nữa. Bây giờ ông hỏi các cháu điều này: Muốn cho thằng bé con đây (đứa bé ông mới nhặt được) đi học chữ thì nói với ai? Cần những gì? Sắp đến năm học mới rồi, đúng không?
- Cháu tưởng ông cho nó đi theo và dạy phép thuật cho nó? - Tôi hỏi Ông già phù thủy.
- Phép thuật không thể thay được chữ. Phải cho nó học chữ trước tiên. Ông không muốn nó giống như ông ngày trước.
Một đứa trong bọn tôi hỏi:
- Ông lấy gì mà nuôi nó đi học?
- Trước đây ông đã dành dụm được một ít tiền. Mai kia ông xin cái giấy phép mở lớp dạy ảo thuật, dạy võ để kiếm thêm - Ông già nói như đã nghĩ kỹ lắm rồi.
Tôi bảo ông:
- Cháu nghĩ việc cho thằng nhỏ đi học thì dễ thôi. Ông cứ đến nói chuyện với bác trưởng thôn và thầy hiệu trưởng xem thế nào. Cháu tin là ổn, vì việc học hành của trẻ con lúc nào cũng được quan tâm nhất - Đoạn tôi hỏi thằng bé con đang ngồi nép dưới nách Ông già phù thủy:
- Em có thích đi học không?
Thằng bé im lặng ngửa cổ nhìn trời. Đôi mắt trong veo của nó nhìn xoáy vào màn đêm đầy sao sáng và những vì tinh tú. Hình như nó đang tìm xem “ngôi sao chiếu mệnh” của nó ở đâu. Nhưng nó chẳng thấy ngôi sao nào như vậy cả. Trước mắt nó chỉ có Ông già phù thủy râu tóc bạc phơ như Tiên ông và xung quanh là lũ trẻ con chúng tôi chỉ lớn hơn nó vài tuổi. Sự tin cậy sáng lên trong mắt nó, gương mặt thằng bé con lấp lánh niềm vui.
Ý kiến bạn đọc