Từ những cụ già đã trải qua chiến tranh, đến những thanh niên lớn lên trong hòa bình, và cả những em bé thơ ngây, tất cả đều hòa chung một niềm tự hào, một sự xúc động khó diễn tả thành lời. Lễ diễu binh, diễu hành không chỉ là một sự kiện trang trọng mà còn là sợi dây vô hình gắn kết trái tim của mỗi người Việt Nam.
"Vui sao, nước mắt lại trào…" - Đó là nước mắt của sự tri ân, của niềm tự hào. Chứng kiến lễ diễu binh diễu hành hoành tráng và linh thiêng, niềm tự hào xen lẫn giọt nước mắt. Với các cựu chiến binh, họ khóc bởi bao đồng đội đã ngã xuống để họ được vẹn nguyên trở về, bởi thế hệ hôm nay mãi biết ơn, trân trọng sự hi sinh của đồng đội, đóng góp của cha ông. Đồng đội ơi, non sông, Tổ quốc đang chào đón chúng ta. Các đồng đội đã ngã xuống nhưng Tổ quốc mãi nghiêng mình cúi đầu trước sự hi sinh của đồng đội. Đó là những cảm xúc không thể cầm lòng của bao cựu binh khi chứng chiến lễ diễu binh diễu hành kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Theo dõi lễ diễu binh từ màn ảnh nhỏ, những người con của Tuyên Quang, từ mái đầu bạc đến ánh mắt trẻ thơ, đều không khỏi nghẹn ngào. Niềm tự hào trào dâng khi nhìn thấy sức mạnh của quân đội nhân dân Việt Nam, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, ký ức về những năm tháng chiến tranh gian khổ vẫn còn vẹn nguyên. Với những cựu chiến binh Tuyên Quang, những người đã từng "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", ngày 30 tháng Tư không chỉ là ngày vui chiến thắng mà còn là ngày để tưởng nhớ những đồng đội đã mãi mãi nằm lại nơi chiến trường. Giọt nước mắt lăn dài trên gò má nhăn nheo là minh chứng cho nỗi nhớ thương da diết, cho sự biết ơn vô hạn đối với những người đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ khóc, bởi họ còn sống, còn được trở về, còn được chứng kiến đất nước hòa bình, thống nhất, nhưng bao đồng đội thân yêu thì không còn nữa.
Giữa dòng chảy cảm xúc đó, những đóng góp thầm lặng nhưng vô cùng to lớn của quân và dân Tuyên Quang trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ càng trở nên đặc biệt ý nghĩa, khắc họa sâu sắc hơn hành trình đi đến khúc khải hoàn trọn vẹn của dân tộc.
Tuyên Quang, mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, không chỉ là căn cứ địa vững chắc trong những năm kháng chiến gian khổ mà còn là biểu tượng của tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực tự cường. Trong giai đoạn chiến tranh ác liệt từ 1966 đến 1975, quân và dân Tuyên Quang đã đồng thời gánh vác hai nhiệm vụ nặng nề: vừa sản xuất, xây dựng hậu phương, vừa chiến đấu, chi viện tiền tuyến. Với tinh thần "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", người dân các dân tộc Tuyên Quang đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đóng góp sức người, sức của một cách tận tâm cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng khúc khải hoàn tháng Tư vẫn vang vọng mãi trong trái tim mỗi người dân Việt Nam, và Tuyên Quang, với những đóng góp thầm lặng mà cao cả, mãi là một phần không thể thiếu trong bản hùng ca bất tận ấy.
Đặc biệt, trong khoảnh khắc lịch sử thiêng liêng khi lá cờ chiến thắng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, có sự hiện diện của người con ưu tú của quê hương Tuyên Quang – pháo thủ Nguyễn Văn Kỷ trên chiếc xe tăng 843. Câu chuyện về chiếc xe tăng húc đổ cổng Dinh Độc Lập và giây phút Trung úy Bùi Quang Thận cắm cờ đã trở thành một biểu tượng bất diệt của chiến thắng. Dù bác Nguyễn Văn Kỷ đã về với đất mẹ, dang dở ước mơ trở lại Thành phố Hồ Chí Minh trong dịp kỷ niệm 50 năm, nhưng hình ảnh và tinh thần của bác vẫn sống mãi trong lòng mỗi người dân Tuyên Quang và cả nước.
Thế hệ trẻ Tuyên Quang, những người sinh ra và lớn lên trong hòa bình, cũng không khỏi xúc động khi lắng nghe những câu chuyện bi tráng từ những người cha, người ông. Họ hiểu rằng, để có được cuộc sống yên bình ngày hôm nay, bao xương máu đã đổ xuống. Những buổi gặp mặt tri ân cựu chiến binh tại Tuyên Quang không chỉ là dịp để ôn lại lịch sử mà còn là cơ hội để thế hệ trẻ bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, nguyện sống xứng đáng với những hy sinh cao cả ấy.
Đi dọc những con phố Tuyên Quang những ngày này, đâu đâu cũng thấy cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới. Những quán cà phê, cửa hàng nhỏ cũng trang hoàng rực rỡ, như một lời chào mừng ngày lễ lớn, như một cách để mỗi người dân thể hiện niềm tự hào và lòng biết ơn. Những bức ảnh các em học sinh tươi cười bên lá cờ Tổ quốc càng làm cho không khí thêm phần trong trẻo và đầy hy vọng.
Trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước đã trải qua 50 năm thống nhất và đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và đổi mới, việc ôn lại những đóng góp của cả dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước càng trở nên ý nghĩa. Đó không chỉ là sự tri ân quá khứ mà còn là nguồn động lực mạnh mẽ để chúng ta tiếp tục phát huy truyền thống, đoàn kết một lòng, xây dựng một nước Việt Nam ngày càng phồn vinh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu như lời căn dặn của Bác Hồ.
Chiến thắng 30-4 là mốc son chói lọi bằng vàng, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, được cả thế giới ngưỡng mộ và tôn vinh. Mọi sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, của các phần tử phản động, cơ hội chính trị đều không làm phai nhạt giá trị, ý nghĩa lịch sử của sự kiện 30-4-1975.
Trong diễn văn khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại lễ diễu binh, diễu hành đã khẳng định: Sau 50 năm thống nhất đất nước, gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đã vượt qua nhiều khó khăn để có được vị thế như hôm nay. Quy mô nền kinh tế năm 2024 đứng thứ 32 thế giới và nằm trong nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, hiện chỉ còn 1,93% so với mức hơn 60% năm 1986.
Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là thắng lợi của chính nghĩa, thắng lợi của bản lĩnh, khí phách và trí tuệ Việt Nam; của lòng yêu nước nồng nàn, khát vọng độc lập, tự do và thống nhất non sông, với chân lý “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, là dấu mốc khẳng định toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã hiện thực được mong muốn và lời căn dặn thiết tha nhất của Bác Hồ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, bắc-nam sum họp một nhà.
Chúng ta không thể viết lại lịch sử, nhưng chúng ta có thể hoạch định lại tương lai. Quá khứ là để ghi nhớ, để tri ân và để rút ra bài học. Tương lai là để cùng nhau xây dựng kiến tạo và phát triển. Đó là lời hứa danh dự của thế hệ hôm nay với những người đã ngã xuống, là tâm nguyện chung của một dân tộc từng trải qua nhiều đau thương nhưng chưa bao giờ khuất phục.
Gửi phản hồi
In bài viết