Không gian mới và hành trình giải mã “gen nghèo” vùng dân tộc thiểu số
Trong kỷ nguyên số hóa, khi văn minh đã len lỏi đến từng nếp nhà, nhưng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) Tuyên Quang và nhiều tỉnh miền núi vẫn tồn tại một dòng chảy ngược đầy ám ảnh: tảo hôn và hôn nhân cận huyết. Dòng chảy đó mang tên “Gen nghèo”. Nó không đơn thuần là sự thiếu hụt về vật chất, mà là “mã gen” của sự suy thoái giống nòi, sự bào mòn về thể chất và trí tuệ được di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tiếp cận vấn đề trên một số phương diện về nhân học, y học, kinh tế học và quản trị công, nhóm phóng viên Báo Tuyên Quang thực hiện loạt bài viết tập trung khắc họa những góc khuất tại nhiều tỉnh có đồng bào dân tộc thiểu số trong cả nước, tham khảo ý kiến các chuyên gia, tìm lời giải cho sự bất cập giữa hủ tục nặng nề và những chế tài xử phạt của pháp luật hiện hành.
Năm 2025 đất nước ta thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy, thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp; cũng là thời điểm kết thúc Đề án Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào DTTS giai đoạn 2015 - 2025. Việc sắp xếp lại giang sơn, mở ra không gian phát triển mới cho các địa phương chính là cơ hội tốt để thực hiện một cuộc “đại phẫu” cắt bỏ ung nhọt nguy hại từ hôn nhân cận huyết và tảo hôn, sắp xếp lại “bản đồ gen” để chỉnh sửa “gen nghèo, gen lỗi” từ việc “chảy ngược” của dòng máu đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao.
Kỳ 1: Bi kịch hôn nhân cận huyết và tảo hôn
Tại những bản làng mờ sương, nơi nương rẫy là hơi thở, có một sự thật nghiệt ngã đang âm thầm bào mòn đời sống của người dân: Tảo hôn và hôn nhân cận huyết. Đó không còn đơn thuần là câu chuyện về hủ tục, mà là nỗi đau “gen nghèo” làm lỗi nhịp trong cơ cấu kinh tế hộ gia đình, tạo “bản án” di truyền cho những đứa trẻ từ lúc chưa kịp thành hình.
![]() |
Bi kịch từ trong bụng mẹ
Tiến sĩ, bác sĩ Bạch Quốc Khánh, Chủ tịch Hội Huyết học - Truyền máu Việt Nam, cảnh báo: tỷ lệ mang gen bệnh Thalassemia (tan máu bẩm sinh) ở một số cộng đồng dân tộc thiểu số như Mông, Ê Đê, Raglai… dao động 40 - 50%. Nghĩa là cứ hai người có một người mang mầm bệnh làm suy kiệt giống nòi. Trong hôn nhân cận huyết, xác suất va chạm gen lỗi trở thành “cơn bão” di truyền. Những đứa trẻ sinh ra từ đó gánh bản án ngay từ phôi thai.
Trong căn bếp nhỏ ám khói ở thôn Đoàn Kết, xã Bản Máy, tỉnh Tuyên Quang, em Lù Thị S. ngồi lặng im bên bếp lửa. Mới tròn 18 tuổi, S. đã là mẹ của 2 đứa trẻ. Bốn năm trước, khi mới 14 tuổi, em bị gả cho Ma Chính P. - một cuộc hôn nhân vừa tảo hôn, vừa cận huyết, bởi mẹ của S. và mẹ của P. là hai chị em ruột. Khi lẽ ra còn ngồi trên ghế nhà trường, S. đã bước vào đời sống hôn nhân khắc nghiệt, gánh trên vai những trách nhiệm vượt quá sức tuổi thơ. Hệ lụy nhanh chóng hiện hữu. Đứa con đầu lòng của S. bị suy dinh dưỡng thể nặng, ốm đau triền miên. Thiếu kiến thức, thiếu kỹ năng làm cha mẹ, vợ chồng trẻ loay hoay trong vòng quay chăm sóc con cái mà không biết bắt đầu từ đâu. Cái nghèo, sự thiếu hiểu biết và những tập tục lạc hậu cứ thế bủa vây, khóa chặt tương lai của cả gia đình.
Tại thôn Nà Tang, xã Hùng Lợi (Tuyên Quang), cậu bé D.Đ.C. là minh chứng về hôn nhân cận huyết. Sinh ra với căn bệnh bạch tạng toàn phần từ cuộc hôn nhân “giữ người, giữ của” giữa hai anh em con cô con bác, C. có làn da mỏng đến mức lộ rõ từng mạch máu xanh xao, đôi mắt luôn nheo lại vì sợ ánh sáng. Bi kịch của C. không đến từ “con ma rừng” nào mà đến từ chính sự cộng hưởng của những gen lặn trong một dòng máu quá gần.
![]() |
| Sình Thị L. (thứ 3 từ trái qua) thôn Đậu Chúa, xã Đồng Văn học hết lớp 9 thì lấy chồng, sinh con, trong khi chị gái L. cũng lấy chồng năm 16 tuổi. |
Điều đáng nói trong dòng họ này có nhiều cuộc hôn nhân cận huyết, không chỉ mình C. phải gánh hậu quả mà còn 4 người cũng bị bệnh tật, ốm yếu, trong đó có 1 trường hợp tử vong.
Tại xã Thượng Hóa, tỉnh Quảng Bình, câu chuyện của vợ chồng anh Cao Xuân Ch. và chị Cao Thị V. (người Rục) khiến ai nấy rùng mình: Anh Ch. là cậu ruột của chị V. Một cuộc hôn nhân đúng các bước của đám cưới người Rục nhưng trái ngược hoàn toàn với quy luật sinh học. Ba đứa trẻ chào đời, đứa con đầu chết khi vừa vào lớp 1, hai đứa sau ốm yếu quặt quẹo. Đó là cái giá đắt cho việc “bình thường hóa” những quan hệ trái tự nhiên.
Gần 20 năm gắn bó với Khoa Nhi - Bệnh viện Đa khoa Tuyên Quang, Tiến sĩ, bác sĩ Đỗ Thị Thu Giang chứng kiến sự tàn phá âm thầm của Thalassemia. Năm 2009, khoa chỉ tiếp nhận khoảng 30 bệnh nhân; nay con số đã tăng gấp 10 lần, lên hơn 300 trẻ em, đa phần là dân tộc thiểu số. Các bệnh nhân này phải đến bệnh viện truyền máu định kỳ mỗi tháng khiến gia đình cực kỳ khó khăn, tốn kém dù đã được nhà nước hỗ trợ kinh phí điều trị. Chị trăn trở: “Nhiều người nghĩ hôn nhân cận huyết phải sinh con dị dạng mới đáng sợ. Không phải. Điều đáng sợ nhất là những đứa trẻ trông bình thường nhưng trí tuệ chậm phát triển, mang dòng máu bệnh tật mãn tính. Các em sống lay lắt như ngọn đèn trước gió, không đủ sức làm nương, không đủ trí để học chữ”.
Thống kê từ Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang, năm 2025, số lượt điều trị nội trú bệnh Thalassemia là 1.656. Điều này cho thấy mầm mống của căn bệnh vẫn âm thầm lan rộng trong cộng đồng, mà nguyên nhân gốc rễ thường bắt nguồn từ những cuộc hôn nhân cùng huyết thống ở các bản làng vùng sâu, vùng xa.
Những đứa trẻ sinh ra từ hôn nhân cận huyết là nạn nhân vô tội của một “quyết định tập thể”: sự vun vén của cha mẹ, sự im lặng của dòng họ, và đã có một thời gian làm ngơ của những người có trách nhiệm. Chúng là chứng nhân tố cáo sự lạc hậu âm thầm tàn phá tương lai, nòi giống của nhiều dòng họ. Đó là khởi nguồn của những gen lỗi đã và đang tạo nên gen nghèo đeo đẳng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Những đứa trẻ sinh ra đứa trẻ
Em Sình Thị L., thôn Đậu Chúa, xã Đồng Văn, Tuyên Quang học hết lớp 9 thì bỏ học rồi lấy chồng, và một năm sau trở thành mẹ. Hiện L. 25 tuổi là mẹ của năm cô con gái. Chị gái L. cũng kết hôn năm 16 tuổi - một vòng xoáy tảo hôn nối tiếp qua từng thế hệ. Gia đình thuộc diện hộ nghèo, khó khăn chồng chất, nhưng L. vẫn mơ một đứa con trai, như thể việc sinh nở là cách duy nhất để khẳng định giá trị của mình trong mắt dòng họ và cộng đồng.
Trường hợp của em Vừ Thị G., 23 tuổi ở cùng xã Đồng Văn, còn bi kịch hơn. Em phải làm mẹ từ năm 14 tuổi. Khi chưa đủ tuổi pháp lý, G. vẫn phải chờ đến khi tròn tuổi để đăng ký kết hôn; con đầu lòng của em cũng phải đến 2 tuổi mới được làm khai sinh. Một cô bé chưa tròn tuổi vị thành niên đã phải gánh trọn vai trò làm mẹ, người vợ, và là trụ cột sớm của gia đình. Bốn đứa con gái nối tiếp nhau ra đời, mỗi tiếng khóc, mỗi bữa ăn, đều là nhắc nhở nghiệt ngã về tuổi thơ bị tước đoạt, về tương lai bị xáo trộn từ quyết định của người lớn và hủ tục.
Những cô bé như Sình Thị L. và Vừ Thì G. cho thấy bi kịch của những bà mẹ từ khi còn là trẻ con. Tuổi thơ của các em như bông hoa chưa kịp nở đã úa tàn bởi phải chịu trách nhiệm làm vợ, làm mẹ quá sớm. Các em là hiện thân sống động của vòng xoáy “tảo hôn - hôn nhân cận huyết - nghèo đói” đang lặp đi lặp lại qua nhiều thế hệ, bị tước đoạt quyền trưởng thành bình thường.
Chỉ riêng Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025, tại các xã Sơn Vĩ, Khâu Vai, Sủng Máng, Tát Ngà, Niêm Sơn (Tuyên Quang), đã ghi nhận 69 cặp đôi tảo hôn - một “mùa cưới buồn” nơi tương lai trẻ em khép lại ngay sau cánh cửa hôn nhân.
Hủ tục nặng - chế tài nhẹ
Thạc sĩ Xã hội học Nguyễn Chu Du, giảng viên Trường Đại học Công Đoàn chỉ ra một thực tế trần trụi: chế tài xử phạt tảo hôn hiện nay từ 1-5 triệu đồng, gần như không đủ sức răn đe khi đặt lên bàn cân với giá trị sức lao động của gia đình. “Một hộ gia đình sẵn sàng nộp phạt để có thêm con dâu làm nương, coi đó như khoản “đầu tư” thấp nhưng lợi nhuận lâu dài lại lớn” ông nói.
Bản án số 27/2022/HS-ST của Tòa án nhân dân huyện Đồng Văn (năm 2022) là một minh chứng bi thương. Câu chuyện bắt đầu từ một cuộc làm quen ngày Tết, dẫn đến màn “kéo vợ” chóng vánh khi Thò Mí Pó đưa cháu V.T.M. về nhà. Dù chính quyền xã đã đến tận nhà tuyên truyền, và gia đình ký cam kết không tảo hôn, nhưng chỉ hai tháng sau, Pó vẫn đưa V.T.M. về nhà sinh sống như vợ chồng. Lúc đó, V.T.M. mới chỉ 12 tuổi 6 tháng.
Bi kịch không chỉ nằm ở hành vi phạm tội, mà ở sự bình thường hóa sai lệch: cả bị cáo và gia đình bị hại đều xem đây là “chuyện bình thường” theo phong tục. Thậm chí, mẹ của V.T.M. còn khai sai tuổi con để giảm nhẹ tội cho “con rể hờ”. Kết thúc phiên tòa, Thò Mí Pó nhận 7 năm tù, nhưng mức bồi thường dân sự vỏn vẹn 1,2 triệu đồng cho danh dự và nhân phẩm bị chà đạp - con số gần như chỉ mang tính hình thức, không đủ sức răn đe.
Câu chuyện của em Pừ Thị M. (16 tuổi, thôn Đậu Chúa, xã Đồng Văn) là minh chứng sống: hai vợ chồng trẻ trốn xuống khu công nghiệp làm thuê để tránh sự can thiệp của chính quyền. Kết quả, họ có hai con nhưng phải chia tay, đứa lớn 2 tuổi, đứa bé 1 tuổi phải gửi lại cho bà nội chăm sóc. Cán bộ xã chỉ biết thở dài tiếc nuối khi bi kịch diễn ra ngoài tầm kiểm soát.
Ông Ly Mí Pó, nguyên Phó Chủ tịch HĐND xã Pả Vi (nay thuộc xã Mèo Vạc, tỉnh Tuyên Quang), từng chứng kiến cảm giác bất lực khi tham gia giám sát việc xóa bỏ hủ tục, xây dựng nếp sống văn minh. Ông kể, một lần xuống thôn Kho Tấu, đoàn công tác phát hiện một đôi trai gái chuẩn bị tảo hôn. Khi biết có cán bộ đến, họ vội trốn lên nương; cả bản bỗng trở nên vắng lặng, mái nhà khép kín, như cả cộng đồng đang “che chắn” cho hủ tục đã ăn sâu từ nhiều thế hệ.
Ngay trong mỗi cán bộ, chữ tình và trách nhiệm pháp luật cũng tạo ra rào cản. Phó Chủ tịch UBND xã Tân Tiến, Bùi Thanh Hưởng bộc bạch: Xử lý gắt gao thì mất lòng bà con, mà lờ đi thì sai quy định. Nhìn một cặp đôi trẻ đã trót có con, lòng trắc ẩn đôi khi khiến cán bộ chùn tay. Có lúc, chúng tôi buộc phải chọn giải pháp nhẹ tay, hoặc báo cáo là đã tuyên truyền nhưng chưa hiệu quả, chỉ để giữ hòa khí. Ở cấp gần dân nhất, cán bộ xã, thôn bản phải đối diện với cuộc chiến tâm lý đầy nghiệt ngã: một bên là thượng tôn pháp luật, là đạo lý bảo vệ trẻ em; bên kia là mạng lưới quan hệ dòng họ chằng chịt, sợ bị cộng đồng tẩy chay vì tội “phá lệ làng”. Đây là điểm nghẽn tai hại khiến hôn nhân cận huyết và tảo hôn vẫn tồn tại trong bản làng.
Luật sư Dương Mỹ Thiện, Đoàn luật sư TP Hà Nội nhận định: “Những cuộc “đào thoát” lên nương mỗi khi có đoàn giám sát thực chất là sự phản kháng âm thầm nhưng quyết liệt của luật tục trước các quy định của pháp luật. Khi người dân chọn cách lẩn tránh, tức là họ chọn sự an toàn trong vòng tay dòng họ hơn là bảo hộ của pháp luật.
Không chỉ lẩn tránh, bi kịch của hôn nhân cận huyết và tảo hôn còn đau xót hơn khi có những đứa trẻ tìm đến lá ngón. Theo số liệu thống kê của UBND tỉnh Hà Giang (tháng 5/2025), giai đoạn 2021 - 2023, toàn tỉnh ghi nhận 320 vụ tự tử. Riêng 5 tháng đầu năm 2025, xảy ra 42 vụ tự tử, làm 42 người chết, trong đó có hơn 50% nạn nhân là người dân tộc Mông. Trong số này - theo nhận định của cơ quan chức năng - có những trường hợp phản kháng cực đoan khi bị phát hiện vi phạm quy định về tảo hôn và hôn nhân cận huyết.
Hôn nhân cận huyết và tảo hôn đã và đang khiến tuổi thơ của nhiều trẻ em vùng cao bị mất, ảnh hưởng xấu đến giống nòi, bào mòn sức sống cộng đồng các dân tộc thiểu số vùng cao. Đó chính là một trong những nguyên nhân nguy hại dẫn đến gánh nặng bệnh tật, hạn chế tri thức, năng lực lao động, tạo nên “vòng xoáy gen nghèo” cản trở sự phát triển.
Bài ảnh: Thu Hà, Chúc Huyền, Thu Phương, Giang Lam, Biện Luân, Hoàng Hà
(Còn nữa)












Ý kiến bạn đọc