Bộ đội ta đánh chiếm sân bay Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên - Mở đầu cho cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975. Ảnh tư liệu
1. Hiện thực hóa quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị
Dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu, trực tiếp là Tổ Trung tâm xây dựng Kế hoạch chiến lược, nghiên cứu, cân nhắc kỹ lưỡng. Những năm 1973-1975, trong số bốn quân khu-quân đoàn của địch, địa bàn Quân khu 2-Quân đoàn 2 có hai khu vực: Tây Nguyên gồm năm tỉnh và khu vực đồng bằng miền trung dọc bờ biển có bảy tỉnh. Đây là chiến trường yếu, nhiều sơ hở của địch, nhưng rất hiểm yếu. Nếu để mất Tây Nguyên “Mái nhà nam Đông Dương”, thế bố trí chiến lược của địch ở miền nam bị cắt làm đôi.
Như đồng chí Trường Chinh nhận định: “Ai chiếm được Tây Nguyên sẽ làm chủ Việt Nam và Đông Dương”. Từ đây, quân ta có thể đưa quân sang Lào, Campuchia, ra miền bắc Việt Nam rồi đổ xuống một dải duyên hải miền trung, hoặc tiến xuống vùng Nam Bộ. Chiếm được Tây Nguyên, quân ta có điều kiện đưa binh khí kỹ thuật lớn đánh chiếm vùng đồng bằng miền trung, thực hiện đòn chia cắt chiến lược vô cùng quan trọng - “Mũi giáo chia cắt chiến lược quyết định”.
Tây Nguyên có địa hình rừng núi, nhiều đèo, nhiều dốc hiểm trở, kín đáo, làm hạn chế các trang bị hiện đại của địch. Địa hình này phát huy hiệu quả binh khí kỹ thuật lớn của ta. Hệ thống vận chuyển chiến lược 559 đã đi qua Tây Nguyên, bảo đảm hậu cần-kỹ thuật cho quân ta chiến đấu lâu dài.
2. Chiến dịch Tây Nguyên liên tiếp gây bất ngờ, choáng váng quân đội và chính quyền ngụy Sài Gòn
Khi quân ta tiến công vào Tây Nguyên, nhất định địch phải ứng cứu. Nhưng địch không thể ào ạt tăng quân khi quân ta đã cắt đứt các trục đường huyết mạch: 19, 21 và 14. Địch chỉ có thể đổ quân bằng đường không, nhưng với cách này phải mất hai đến ba ngày mới có thể đổ được một trung đoàn hay lữ đoàn với đầy đủ trang bị. Mặt khác, địch cũng không thể tăng viện đường không các loại trang bị nặng như: xe tăng, pháo 155 mm trở lên.
Trên cơ sở chọn đúng hướng tiến công chủ yếu, quân ta tiếp tục chọn Buôn Ma Thuột làm mục tiêu chủ yếu của cuộc Tổng tiến công. Nơi đây nằm sâu trong vùng kiểm soát của địch, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa quan trọng của Tây Nguyên, thị xã có vị trí rất cơ động, đứng ngay ở ngã ba Đường 21 chiến lược nối liền với Nha Trang và Đường 14, phía bắc đi Cheo Reo - Pleiku, phía nam đi Gia Nghĩa ở miền Đông Nam Bộ; là nơi tập trung lực lượng đầu sỏ phản động trong vùng. Đây là nơi địch yếu và sơ hở.
Khi tiến công Buôn Ma Thuột, quân ta gặp khó khăn trong việc trinh sát, nắm địch, nắm địa hình, vận chuyển vật chất hậu cần và cơ động tập kết, triển khai lực lượng. Mọi hoạt động chuẩn bị phải rất công phu và tuyệt đối bí mật, kết hợp với hoạt động nghi binh, thu hút sự chú ý và đối phó của địch về hướng khác để loại bỏ khả năng địch tăng cường dự phòng. Kế hoạch tiến công Buôn Ma Thuột phải thật chủ động, sáng tạo, bảo đảm trong mọi tình huống đều phải chắc thắng.
Không chỉ có Tổ Trung tâm xây dựng Kế hoạch chiến lược của Quân ủy Trung ương phát hiện và chọn Buôn Ma Thuột để mở màn cuộc Tổng tiến công nổi dậy. Khi Quân ủy Trung ương gợi ý: Nếu năm 1975 quân ta đánh lớn trên chiến trường Tây Nguyên thì mục tiêu chủ yếu nên nhằm vào đâu? Thường vụ và Bộ Tư lệnh B3 đã trả lời: Nên chọn đánh vào Buôn Ma Thuột.
Cùng thời gian này, được phép của lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Thiếu tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tổng Tham mưu trưởng - trực tiếp chỉ đạo phần chiến dịch cho học viên quân sự, ra đầu bài tập đánh lớn ở Tây Nguyên cho Lớp Cán bộ trung cao cấp của Học viện Trung cao (nay là Học viện Quốc phòng). Hầu hết học viên đều chọn đánh Buôn Ma Thuột. Như vậy, ý định đánh Buôn Ma Thuột đã đạt được sự nhất trí cao, là sự gặp gỡ của cấp chiến lược và cấp chiến dịch cũng như chiến trường.
Diễn biến Chiến dịch Tây Nguyên đã chứng minh quyết tâm chọn thị xã Buôn Ma Thuột làm trận đánh then chốt, trận đánh mở đầu là rất chính xác -
một đòn đánh hiểm nhằm vào chỗ sơ hở điểm yếu của địch. Việc giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột đã phá vỡ tuyến phòng thủ của quân đội ngụy ở Tây Nguyên. Quân địch rơi vào tình thế hoảng loạn và phạm sai lầm về chiến lược. Chớp thời cơ địch rút chạy, quân ta tổ chức truy kích, vừa mở rộng vùng giải phóng, vừa gây tổn thất nặng nề, khiến tinh thần binh lính địch càng hoảng loạn, suy sụp. Việc quân ta giải phóng các tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh ven biển miền trung khiến địch bị chia cắt, thế bố trí chiến lược bị đảo lộn, hệ thống phòng thủ của địch trên chiến trường miền nam lung lay, thúc đẩy sự tan rã hàng loạt.
3. Thắng lợi to lớn tầm chiến lược của Chiến dịch Tây Nguyên
Với chiến thắng Tây Nguyên, lần đầu tiên trong 30 năm chiến tranh cách mạng, bằng một chiến dịch tiến công, quân ta đã buộc quân đoàn địch được trang bị hiện đại đã phải rút bỏ một địa bàn chiến lược. Quân đoàn 2-Quân khu 2 ngụy bị xóa sổ, năm tỉnh Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Phú Bổn và Quảng Đức cùng ba tỉnh Nam Trung Bộ là: Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa được giải phóng.
Chiến dịch Tây Nguyên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch, giải phóng địa bàn có ý nghĩa chiến lược, phá vỡ và cắt đôi thế bố trí chiến lược của địch. Quân địch phải co cụm và bị động đối phó trên các chiến trường, lâm vào thế bị động, lúng túng, tác động xấu đến tinh thần binh sĩ. Chiến thắng đã tạo hiệu ứng dây chuyền - “hiệu ứng ĐÔMINO”, thúc đẩy sự tan rã của địch. Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên tạo thế và lực cho cách mạng “như triều dâng, thác đổ”, “như thế trẻ tre”, tạo cơ hội “một ngày bằng hai mươi năm”.
Từ tiến công chiến lược ở Tây Nguyên đã mở ra Tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền nam. Chiến thắng này tạo ra bước ngoặt quyết định, làm sụp đổ thế trận phòng thủ của địch, mở ra thời cơ thuận lợi để quân và dân ta tiếp tục các đòn tiến công chiến lược, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước.
Sau khi giành thắng lợi ở Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp và quyết định chuyển sang phương án thời cơ, chuyển cuộc tiến công chiến lược sang tổng tiến công chiến lược, hoàn thành kế hoạch hai năm ngay trong năm 1975. Chiến dịch Tây Nguyên thật sự là đòn đột phá chiến lược mở đầu cho thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 vĩ đại.
Gửi phản hồi
In bài viết