Đại tướng Chu Huy Mân - Chiến sĩ cộng sản kiên trung, vị tướng chiến công lẫy lừng

Cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Chu Huy Mân đồng hành với từng bước đi của Đảng và của đất nước, từ kiếp đời nô lệ được đảng soi sáng trên con đường đấu tranh đi đến tự do.

Đồng hành với bước đi của cách mạng

Đồng chí Chu Huy Mân, tên khai sinh là Chu Văn Điều, sinh ngày 17/3/1913, tại xã Yên Lưu, Tổng Yên Trường, phủ Hưng Nguyên (nay là xã Hưng Hòa, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An). Chu Văn Điều là con út trong một gia đình có 8 người con, bố là Chu Văn Quý từng làm phu kéo xe, qua đời khi con trai út mới 14 tháng tuổi; mẹ là Trần Thị Xân, người phụ nữ tảo tần, yêu thương chồng con và mất trong nạn đói năm Ất Dậu (1945).

Sinh ra ở vùng quê được xem là địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống văn hiến, yêu nước và đấu tranh cách mạng, được gia đình tạo điều kiện học tập, Chu Văn Điều đã sớm tiếp thu truyền thống quê hương và giác ngộ cách mạng.


Nhà tưởng niệm Đại tướng Chu Huy Mân tại quê hương Hưng Hòa (TP. Vinh).

Năm 1929, Chu Văn Điều tham gia cuộc mít tinh lớn của xã; trong Cao trào Cách mạng 1930 – 1931, được cử làm Đội phó Đội Tự vệ đỏ; tháng 11/1930, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 6/1931, Chu Văn Điều bị địch bắt, sau nhiều ngày tra tấn dã man nhưng không khuất phục được ý chí quyết không “quy thuận” , địch buộc phải thả anh.

Năm 1933, đồng chí được cử làm Bí thư Chi bộ xã Yên Lưu; tháng 5/1935, đồng chí đổi tên thành Chu Huy Mân với ý nghĩa là “ngọc sáng”; năm 1936, là Bí thư Huyện ủy Hưng Nguyên. Từ năm 1937 – 1940, đồng chí bị thực dân Pháp bắt giam nhiều lần ở Nhà lao Vinh, đến năm 1940 bị đưa đi giam ở Ðắc Glei rồi Ðắc Tô, Kon Tum.

Năm 1943, đồng chí Chu Huy Mân vượt ngục, tiếp tục hoạt động cách mạng; tháng 9/1944, tham gia Ban Việt Minh tỉnh và Tỉnh ủy Quảng Nam; đầu tháng 8/1945, tham gia Ban Thường trực Ủy ban Bạo động tỉnh Quảng Nam. Cách mạng tháng 8/1945 thành công, đồng chí được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam; tháng 9/1945, đồng chí được phân công làm Chính trị viên Chi đội (Tỉnh đội).


Chân dung Đại tướng Chu Huy Mân.

Từ cuối năm 1946 đến tháng 5/1951, đồng chí được giao giữ nhiều chức vụ quan trọng của Quân đội: Trưởng ban Kiểm tra Đảng; Quân khu ủy viên Khu Việt Bắc; Trung đoàn trưởng kiêm Bí thư Trung đoàn ủy Trung đoàn 72, Trung đoàn 74 Cao Bằng và Trung đoàn 174 Cao – Bắc – Lạng (1947 – 1949); trực tiếp chỉ huy Trung đoàn 72 tham gia Chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông 1947; chỉ huy Trung đoàn 74 sang giúp cách mạng Trung Quốc đánh quân Tưởng (1948 – 1949); chỉ huy Trung đoàn 174 tham gia đánh trận then chốt Đông Khê trong Chiến dịch Biên giới 1950 thắng lợi; Phó Chính ủy, Chính ủy Ðại đoàn 316, Bí thư Đảng ủy Ðại đoàn 316 (tháng 5/1951), cùng cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn tham gia nhiều chiến dịch, từ Bắc Giang đến Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào và Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Từ năm 1954 – 1961, đồng chí Chu Huy Mân được giao đảm nhiệm các chức vụ: Ðoàn trưởng, Bí thư Ðảng ủy Ðoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào; Chính ủy, Bí thư Ðảng ủy Quân khu 4 (1957); Bí thư Khu ủy Tây Bắc, đồng thời là Chính ủy, Bí thư Ðảng ủy Quân khu Tây Bắc (năm 1958); Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Ðảng ủy Quân khu 4 (1961).

Năm 1962, đồng chí được cử đi học tại Học viện Quân sự Phơ-run-de (Liên Xô). Tháng 9/1963, được Trung ương Ðảng điều vào chiến trường Quân khu 5 và giữ các chức vụ: Trưởng đoàn Kiểm tra của Ðảng ủy Quân sự Trung ương nghiên cứu công việc của Quân khu 5; Phó Bí thư Khu ủy rồi Bí thư Quân khu ủy, Chính ủy Quân khu 5.


Đồng chí Chu Huy Mân cùng các đồng chí Khu ủy Khu V tại chiến trường Khu V.

Tháng 8/1965, đồng chí đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Ðảng ủy Mặt trận B3 – Tây Nguyên. Năm 1967, đồng chí đảm nhiệm chức vụ Phó Bí thư Khu ủy, Tư lệnh, Phó Chính ủy, Phó Bí thư Quân khu ủy Khu 5; cuối năm 1975 là Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Quân khu ủy Khu 5.

Sau ngày 30/4/1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đồng chí tiếp tục giữ chức Tư lệnh, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 5.

Tháng 3/1977 – 12/1986, đồng chí đảm nhiệm chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Phó Bí thư Ðảng ủy Quân sự Trung ương, Trưởng ban Kiểm tra Ðảng ủy Quân sự Trung ương, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước tháng 7/1981.

Năm 1958, đồng chí được phong quân hàm Thiếu tướng; thăng quân hàm vượt cấp từ Thiếu tướng lên Thượng tướng năm 1974; Ðại tướng năm 1980.


Đại tướng Chu Huy Mân thăm đồng bào các tỉnh miền núi phía Bắc năm 1955.

Tại Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960), đồng chí được bầu là Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Ðảng. Tại Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ IV (năm 1976) và Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ V (năm 1982), đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. Ðồng chí là đại biểu Quốc hội các khóa II, VI, VII.

Tháng 12/1986, đồng chí nghỉ công tác. Đồng chí Chu Huy Mân từ trần ngày 1/7/2006, hưởng thọ 93 tuổi.

Với những công lao và thành tích hoạt động cách mạng, đồng chí Chu Huy Mân được Ðảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Ðảng cùng nhiều huân, huy chương và phần thưởng cao quý khác của Đảng, Nhà nước ta và các nước bạn…

Nhà Quân sự tài ba

Ngay từ những năm tháng đầu tiên tham gia cách mạng, đồng chí Chu Huy Mân đã gắn bó với lực lượng vũ trang. Tài thao lược của đồng chí gắn liền với nhiều chiến công vang dội của quân và dân ta trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Trong cao trào Xô viết Nghệ – Tĩnh 1930 – 1931, đồng chí Chu Huy Mân đã lãnh đạo Đội Tự vệ đỏ đẩy mạnh đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng. Trên cương vị Bí thư Chi bộ xã Yên Lưu, đồng chí đã trực tiếp lãnh đạo phục hồi sau “khủng bố trắng” của thực dân Pháp (1933 – 1935) và tích cực tham gia các hoạt động trong phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ trong giai đoạn 1936 – 1939.

Trong giai đoạn 1937 – 1942, đồng chí Chu Huy Mân nhiều lần bị địch bắt, giam cầm, đánh đập, tra tấn dã man và đưa đến nhiều nhà lao, như: Vinh (Nghệ Tĩnh), Đắk Glei, Đắc Tô (Kon Tum). Trong chốn lao tù, đồng chí luôn giữ vững khí tiết của một người cộng sản kiên trung.

Tháng 8/1945, đồng chí đã trực tiếp chỉ huy cuộc khởi nghĩa chiếm thành Quảng Nam, tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa tại tỉnh Quảng Nam giành thắng lợi. Cuối năm 1945, đồng chí được Trung ương điều ra Huế giữ chức Chủ tịch Ủy ban Quân chính khu C (gồm 4 tỉnh Bắc Trung Bộ). Sau đó, lần lượt đảm nhiệm nhiều cương vị quan trọng của Quân đội và của Đảng, Nhà nước trên các mặt trận nóng bỏng, ác liệt nhất ở cả trong nước và các nước bạn Lào, Trung Quốc.

Trong Chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông 1947, trên cương vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 72, đồng chí đã tổ chức đánh địch nhiều trận giành thắng lợi, góp phần buộc quân Pháp phải rút khỏi Bắc Kạn. Năm 1948, đồng chí được cấp trên điều lên Cao Bằng giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 74 kiêm Bí thư Đảng ủy Trung đoàn.

Cuối tháng 8/1948, thực hiện Chỉ thị của Bộ Tổng chỉ huy, đồng chí Chu Huy Mân đã chỉ huy Trung đoàn 74 sang giúp cách mạng Trung Quốc đánh quân Tưởng, mở rộng căn cứ địa ở vùng Tả Giang, tiến hành Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn giành thắng lợi, được Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đánh giá cao. Năm 1950, đồng chí đã chỉ huy Trung đoàn 174 tham gia đánh trận then chốt Đông Khê và giành thắng lợi trong Chiến dịch Biên giới.


Thủ trưởng Chu Huy Mân đặc biệt quan tâm đến cán bộ, chiến sĩ ở chiến trường.

Ngày 1/5/1951, Đại đoàn 316 được thành lập, đồng chí Chu Huy Mân được phân công giữ các chức vụ Phó Chính ủy, Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Đại đoàn. Đồng chí đã cùng tập thể lãnh đạo, chỉ huy Đại đoàn tham gia nhiều chiến dịch, từ Bắc Giang đến Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, đánh thắng nhiều trận, tiêu biểu là tiến công cứ điểm Đồi A1, cứ điểm C1, C2 trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đồng chí Chu Huy Mân đã cùng tập thể Khu ủy, Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 lãnh đạo quân và dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược, chiến thuật của địch. Khu 5 là địa phương “đi đầu diệt Mỹ” với những chiến công vang dội, như Núi Thành, Vạn Tường, Plei Me – Ia Đrăng.

Khu 5 cũng là chiến trường đồng chí đã tham gia chỉ đạo xây dựng thành công “vành đai diệt Mỹ” – một hình thức đánh giặc độc đáo, sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam; chỉ đạo và tổ chức thực hiện thắng lợi các chiến dịch tiến công tổng hợp Ba Gia (1965), Sa Thầy (1966), Tết Mậu Thân (1968), Bắc Bình Định (1972), Chiến dịch Huế, Đà Nẵng (1975)…, góp phần cùng quân, dân cả nước “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Tư lệnh Quân khu V Chu Huy Mân (thứ 2, trái sang) gặp gỡ Ban Chỉ huy Sư đoàn 2 trong Chiến dịch giải phóng Đà Nẵng.
 

Đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, đồng chí Chu Huy Mân tiếp tục tham gia công tác trong quân đội. Đồng chí đã cùng Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng đề xuất với các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước nhiều chủ trương và quyết sách đúng đắn, đồng thời, trực tiếp lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chăm lo xây dựng quân đội theo hướng “cách mạng, chính quy và từng bước hiện đại”.

Đồng chí Chu Huy Mân đã tỏ rõ tài năng, sự sáng tạo đầy bản lĩnh với sự quyết đoán cao của nhà lãnh đạo quân sự – chính trị toàn diện, đã hoàn thành mọi nhiệm vụ quốc tế rất khó khăn, phức tạp mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng giao cho. Thành công đó biểu thị tinh thần quốc tế trong sáng của anh Bộ đội Cụ Hồ, phẩm chất cao quý của nhà chỉ huy quân sự – chính trị xuất sắc của Quân đội Nhân dân Việt Nam – đồng chí Hai Mạnh – Chu Huy Mân.


Đồng chí Chu Huy Mân chỉ đạo việc tiếp quản Quân cảng Đà Nẵng ngay sau khi thành phố được giải phóng (ngày 30/3/1975).

Nhà Chính trị xuất sắc của Đảng

Trên cương vị là một người lãnh đạo công tác Đảng trong quân đội, đồng chí Chu Huy Mân đặc biệt quan tâm, coi trọng công tác Đảng, công tác chính trị, xây dựng nhân tố chính trị tinh thần, giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đội tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện. Đồng chí đã đề ra nhiều biện pháp quan trọng nâng cao hiệu lực các mặt hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội; chú trọng công tác xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ trong quân đội.

Phẩm chất của nhà chính trị tài năng, sắc sảo được khẳng định ở những chỉ đạo quan trọng trong công tác tư tưởng, chính trị, đã động viên, cổ vũ tinh thần, sức mạnh, ý chí quyết chiến của cán bộ, chiến sĩ ở những giai đoạn đầy cam go, ác liệt của cuộc chiến đấu. Theo đồng chí, xây dựng tư tưởng, bản lĩnh của mỗi cán bộ, chiến sĩ trước trận đánh là nhân tố quyết định sự thành bại, công tác tư tưởng phải trở thành nhiệm vụ hàng đầu.

Trên từng cương vị công tác, từ cấp Trung đoàn, cho đến cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, đồng chí Chu Huy Mân thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang.


Đại tướng Chu Huy Mân được các nhà nghiên cứu đánh giá cao qua các hội thảo và tài liệu, sách báo.

Đặc biệt, đồng chí Chu Huy Mân rất chăm lo củng cố, nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức Đảng trong lực lượng vũ trang; xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; xây dựng cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ chính ủy, chính trị viên các cấp.

Những đóng góp của đồng chí Chu Huy Mân mang tư duy chiến lược của một nhà chính trị sâu sắc, sát thực tiễn. Những đóng góp đó đã góp phần trực tiếp xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày càng trưởng thành vững mạnh, đặc biệt là về chính trị, tạo ra cơ sở vững chắc để quân đội tiếp tục phát triển, đáp ứng tốt yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Ngay từ những năm tháng hoạt động ở quê nhà và thời gian bị thực dân Pháp giam cầm, đồng chí Chu Huy Mân luôn là biểu tượng ngời sáng của tinh thần gang thép, niềm tin tất thắng vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo và trở thành tấm gương tiêu biểu cho ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất của người cộng sản trước kẻ thù tàn bạo.


Đồng Chí Chu Huy Mân (ngoài cùng bên trái) chụp ảnh cùng Bác Hồ lúc lên thăm bà con Sơn La (1959).

Là người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, suốt 2 cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ của dân tộc, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí Chu Huy Mân luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của Đảng lên trên lợi ích cá nhân. Đồng chí suốt đời cống hiến vì sự nghiệp cách mạng, thực sự “cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư”, không chịu lùi bước trước khó khăn, thử thách, luôn có mặt ở những nơi nguy hiểm, khó khăn nhất, chung lưng, đấu cật với đồng chí, đồng đội, sâu sát cơ sở, hết lòng phục vụ Tổ quốc, phụng sự Nhân dân.

Quá trình hoạt động cách mạng của đồng chí Chu Huy Mân từ buổi ban đầu cho đến khi giữ những cương vị lãnh đạo cao cấp của Đảng và Quân đội, đồng chí luôn được Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng giao nhiệm vụ và trọng trách vào những thời điểm khó khăn. Với bản lĩnh và tài năng, đồng chí luôn xông xáo, thâm nhập sâu vào cuộc sống của đồng bào, chiến sĩ, gắn bó, lăn lộn trong các phong trào cách mạng, các chiến trường gian khổ, một lòng, một dạ cống hiến hết mình, tìm tòi, sáng tạo để lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng thành công.


Đồng Chí Chu Huy Mân (ngoài cùng bên trái) chụp ảnh cùng Bác Hồ lúc về thăm Nghệ An (1961).

Sinh thời, đồng chí từng nói với các đồng đội: “Vinh quang nhất của cuộc đời là được cống hiến, cống hiến hết mình cho Tổ quốc, cho nhân dân; tôi vào Đảng là hoàn toàn tự nguyện, suốt đời hy sinh, chiến đấu vì Tổ quốc, vì Nhân dân”.

Tháng 12/1986, sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao, về với cuộc sống đời thường, đồng chí Chu Huy Mân vẫn luôn nêu cao phẩm chất, ý chí của người cộng sản, vị tướng của Nhân dân, có nhiều trăn trở, tiếp tục có những đóng góp quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng Đảng và Quân đội./.

Theo Quân Khu Bốn Online

Tin cùng chuyên mục