Vành đai văn hóa soi sáng biên cương - Kỳ cuối: Tôi “sợi thép” văn hóa, giữ chủ quyền dân tộc
Trên dải đất biên cương Tuyên Quang - nơi văn hóa và lịch sử quyện chặt thành mạch nguồn bất tận - đang sáng lên ngọn lửa của niềm tin và bản lĩnh. Giữa làn sóng hội nhập, khi những giá trị truyền thống đối diện nguy cơ phai nhạt, thì cũng chính là lúc văn hóa được tôi luyện qua phép thử “gạn đục khơi trong”, chắt lọc tinh hoa, vun bồi sức mạnh nội sinh dân tộc. Văn hóa hôm nay không chỉ là ký ức hay di sản, mà là “sợi thép mềm” đan nên “vành đai văn hóa” vững chãi nơi phên dậu Tổ quốc - vững vàng bảo vệ chủ quyền, soi đường hành trình phát triển bền vững.
Đầu tư cho văn hóa, khơi nguồn sức mạnh bền vững
Tư tưởng về vị trí chiến lược của văn hóa là đường lối nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta. Từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên năm 1930 đến Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng khẳng định: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận: Chính trị, kinh tế, văn hóa”. Trải qua các thời kỳ, quan điểm ấy luôn được vận dụng sáng tạo, làm rõ vị trí văn hóa như sức mạnh nội sinh, nền tảng tinh thần của xã hội, một trụ cột phát triển bền vững đất nước. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh: “Phát huy sức mạnh mềm của văn hóa là bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước”.
Trong giai đoạn mới, Đảng và Nhà nước đặc biệt coi trọng đầu tư chiến lược cho văn hóa. Nghị quyết số 33-NQ/TW (khóa XI) xác định xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam là trung tâm của mọi chính sách phát triển. Tiếp đó, Nghị quyết số 162/2024/QH15 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035 với tổng vốn hơn 122 nghìn tỷ đồng, thể hiện tầm nhìn dài hạn và quyết tâm tạo bước đột phá. Tỷ lệ chi cho văn hóa trong tổng đầu tư phát triển đạt 1,6 - 1,7% ngân sách quốc gia, giai đoạn 2021 - 2025 tăng hơn 2,26 lần so với giai đoạn trước - minh chứng cho sự chuyển biến từ nhận thức sang hành động, từ chủ trương đến đầu tư thực chất.
![]() |
| Bộ đội biên phòng phối hợp với dân quân tự vệ và người dân xã Sơn Vĩ tuần tra đường biên, mốc giới. |
Với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi - nơi văn hóa là “phên dậu mềm” của quốc gia - Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025 đã dành 2.233 tỷ đồng cho Dự án 6: “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống gắn với phát triển du lịch”. Riêng tỉnh Tuyên Quang, tổng vốn thực hiện dự án đạt hơn 224 tỷ đồng, tập trung đầu tư thiết chế văn hóa cơ sở, bảo tồn 7 lễ hội truyền thống, tổ chức 19 lớp truyền dạy văn hóa dân tộc và phục hồi 3 loại hình văn hóa có nguy cơ mai một.
Cùng với nguồn lực đầu tư, hệ thống thiết chế văn hóa được hoàn thiện rộng khắp: 100% xã, phường có trung tâm văn hóa - thể thao, 3.554/3.802 thôn, tổ dân phố có nhà văn hóa - khu thể thao, trong đó hơn 2.200 công trình đạt chuẩn. Những con số ấy không chỉ phản ánh sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, mà còn minh chứng cho sức sống lan tỏa của văn hóa trong cộng đồng. Nghệ nhân Nhân dân Sìn Văn Phong, dân tộc Pà Thẻn, xã Tân Trịnh chia sẻ: “Sự hỗ trợ của Đảng và Nhà nước đã thắp lên những đốm lửa hồng, hồi sinh văn hóa dân tộc Pà Thẻn - một trong những di sản có nguy cơ mai một rõ rệt”.
Từ ngày 1/7/2025, Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) có hiệu lực, mở ra hành lang pháp lý mới với nhiều điểm tiến bộ về chuyển đổi số trong quản lý di sản, chính sách hỗ trợ nghệ nhân, cơ chế phát huy giá trị văn hóa trên môi trường điện tử… Đây được xem là “tấm áo pháp lý” toàn diện, khẳng định quyết tâm của Nhà nước trong việc bảo tồn và lan tỏa giá trị văn hóa dân tộc.
Trên nền tảng ấy, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang xác định tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I (nhiệm kỳ 2025 - 2030): “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Tuyên Quang đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền vững; xóa bỏ hủ tục, xây dựng nếp sống văn minh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia”. Văn hóa được đặt trong tổng thể chiến lược kết hợp kinh tế - xã hội - quốc phòng - an ninh, gắn với thế trận lòng dân vững chắc, phát huy vai trò của đồng bào dân tộc thiểu số trong xây dựng biên cương thịnh vượng, hòa bình.
Để di sản sống cùng thời đại
Nếu đầu tư cho văn hóa là khơi nguồn sức mạnh nội sinh, thì phát triển văn hóa trong thời đại mới chính là quá trình “tài sản hóa tri thức bản địa”, kết nối truyền thống với kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế số và kinh tế tuần hoàn - những trụ cột của tăng trưởng bền vững.
Minh chứng rõ nét là câu chuyện “mỏ vàng” y dược của đồng bào Tuyên Quang. Trước đây, các bài thuốc tắm, thuốc nam được khai thác manh mún, dễ mai một hoặc bị thương mại hóa sai cách. Nay, nhờ ứng dụng khoa học công nghệ, toàn tỉnh đã có 15 hợp tác xã và 40 hộ gia đình đầu tư công nghệ sấy, chiết xuất, đóng gói dược liệu. Các sản phẩm được chuẩn hóa công thức, giá trị tăng gấp 5 - 7 lần so với nguyên liệu thô. Người dân không chỉ làm ra sản phẩm, mà còn làm chủ tri thức của chính mình. Cùng với đó, “Tri thức và tập quán trồng lúa nước của người Tày” được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (2025) càng khẳng định giá trị của tri thức dân gian trong phát triển hiện đại.
Nếu kinh tế tri thức mang lại chiều sâu cho văn hóa, thì kinh tế số chính là “cánh tay nối dài” giúp di sản vượt qua rào cản không gian. Tại thôn My Bắc, xã Tân Trịnh, Hợp tác xã Thổ cẩm Pà Thẻn là ví dụ điển hình. Giám đốc Tải Thị Mai chia sẻ: “Trước đây, một tấm vải dệt thủ công chỉ bán ở chợ phiên. Giờ, chỉ với điện thoại, chúng tôi livestream kể câu chuyện về hoa văn, phong tục dân tộc, khách hàng trong và ngoài nước sẵn sàng trả giá cao để sở hữu văn hóa chứ không chỉ là sản phẩm”.
Tại Bảo tàng tỉnh, công nghệ 3D Mapping và Hệ thống phần mềm quản lý di sản văn hóa Tuyên Quang giúp lưu trữ, kết nối và quảng bá dữ liệu hiệu quả. Đến nay, 10 di sản văn hóa phi vật thể đã được số hóa, hình thành “ngân hàng văn hóa số” phục vụ nghiên cứu và du lịch. Cùng với đó, nhiều người trẻ trở thành “đại sứ số” của văn hóa dân tộc như nghệ nhân Chu Văn Thạch dạy hát Then, đàn Tính trên YouTube hay nghệ sĩ A Páo (Ngô Sỹ Ngọc) lan tỏa vẻ đẹp vùng cao với hàng nghìn video triệu view. Khi lớp trẻ nhập cuộc, di sản không chỉ được bảo tồn mà còn được tái sinh, sống cùng nhịp thở 4.0.
Kiên định lấy văn hóa làm nền tảng, Tuyên Quang phát triển du lịch gắn với kinh tế xanh như một hướng đi chiến lược. Việc khai thác giá trị văn hóa dân tộc tạo nên trải nghiệm du lịch đặc sắc, thúc đẩy phát triển bền vững và nâng cao giá trị sản phẩm địa phương. Toàn tỉnh hiện có 54 làng văn hóa du lịch cộng đồng, trong đó 9 làng đạt OCOP 3 - 4 sao, trở thành mô hình vừa bảo tồn di sản vừa phát triển du lịch xanh.
Hợp tác xã Homestay 99 ngọn núi (xã Thượng Lâm) là một ví dụ. Với dịch vụ lưu trú gắn liền văn hóa bản địa - hát Then, đàn Tính, dệt thổ cẩm, ẩm thực truyền thống - mô hình này đạt OCOP 4 sao và đang hướng tới 5 sao. Nhiều làng du lịch khác của Tuyên Quang vươn tầm quốc tế: Làng Nặm Đăm, thôn Tha đoạt Giải thưởng Du lịch Cộng đồng ASEAN; thôn Lô Lô Chải được UN Tourism vinh danh “Làng Du lịch tốt nhất thế giới 2025”.
Khu nghỉ dưỡng H’Mong Village (xã Lùng Tám) - với nhà trình tường thủ công, mái ngói âm dương và 15 bungalow mô phỏng quẩy tấu Mông - là hình mẫu hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Cơ sở này nằm trong bảy điểm đầu tiên ở Việt Nam đạt nhãn Du lịch Xanh VITA GREEN, Khách sạn Xanh ASEAN và Khách sạn Xanh tốt nhất Việt Nam. Du khách Pierre Wendling (Pháp) chia sẻ: “Ở H’Mong Village, tôi không chỉ nghỉ dưỡng mà còn được sống trong văn hóa - dệt lanh, lên nương tra ngô, thưởng thức phở ngô Mông - sự kết hợp tinh tế giữa ẩm thực và bản sắc”. Mô hình tạo việc làm cho hơn 70 lao động với thu nhập ổn định, doanh thu hơn 20 tỷ đồng mỗi năm, chứng minh di sản khi được khai thác đúng cách sẽ trở thành nguồn lực kinh tế thực sự.
Cùng với đó, Tuyên Quang còn tiên phong phát triển văn hóa gắn với kinh tế tuần hoàn. Tại xã Vĩnh Tuy, Công ty CP Cam Ta đã “tái sinh” vùng cam đặc sản bằng mô hình sản xuất tuần hoàn: vỏ và bã cam được chế biến thành mật, siro, tinh dầu, mứt, rượu cam - trong đó 3 sản phẩm đạt OCOP 3 - 4 sao. Cây cam không chỉ là sinh kế mà còn là biểu tượng văn hóa - gắn với tập quán canh tác, lễ hội cam và niềm tự hào quê hương, trở thành “đại sứ mềm” kể câu chuyện văn hóa của người Mông, Tày, Dao - chủ nhân của những di sản quốc gia như Gầu Tào, Then, Nhảy lửa, Cấp sắc.
Tuyên Quang đã chứng minh, khi di sản được khai mở đúng cách, kết hợp kinh tế tri thức, kinh tế số và du lịch xanh, nó không chỉ được bảo tồn mà còn trở thành động lực phát triển kinh tế - văn hóa bền vững, mang giá trị toàn cầu.
Một bản sắc - một niềm tin - một sức mạnh
Giữa vùng biên viễn, những nếp nhà trình tường đất của người Mông từng lặng lẽ phai mờ trước những khối bê tông lạnh lẽo. Nhưng hôm nay, hành trình “giữ hồn bản trong dáng nhà” đang được khởi động lại từ chính ý Đảng, lòng dân. Các xã vùng cao của Tuyên Quang đã cụ thể hóa định hướng của tỉnh bằng thiết kế mẫu nhà ở truyền thống dân tộc Mông, áp dụng trong Chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát. Giai đoạn 2024 - 2025, hơn 15.000 căn nhà mới và sửa chữa được hoàn thành với tổng vốn gần 800 tỷ đồng, trong đó có hàng trăm ngôi nhà được xây theo thiết kế nhà trình tường của người Mông. Đó không chỉ là con số, mà là mạch văn hóa ngàn xưa được đánh thức.
Trong tiếng khèn Mông da diết của nghệ nhân ưu tú Vàng Chá Thào ở thôn Chúng Pả A, văn hóa không còn là khái niệm trừu tượng mà là hơi thở của cuộc sống. Ông dạy khèn, dạy lễ, dạy cách sống để “giữ hồn dân tộc, giữ được hồn dân tộc là giữ được biên cương”. Tuyên Quang hiện có 3.435 người có uy tín, 2 Nghệ nhân Nhân dân, 33 Nghệ nhân Ưu tú, 35 nghệ nhân dân gian và nhiều già làng, trưởng bản, trưởng các dòng họ - họ là những cột mốc tinh thần của biên cương, vừa giữ lửa truyền thống, vừa truyền niềm tin về Đảng, về quê hương.
Nếu những nghệ nhân là “gốc rễ” giữ hồn văn hóa, thì thế hệ trẻ là “mầm xanh” giúp di sản vươn mình trong thời đại mới. Ở xã Sà Phìn, mô hình truyền thanh phòng chống tội phạm trên không gian mạng được Đoàn Thanh niên và Công an xã triển khai bằng cách dịch bản tin sang tiếng Mông, thu âm và phát lưu động đến từng thôn bản. Nhờ đó, tri thức pháp luật, ý thức công dân và văn hóa ứng xử lan tỏa tự nhiên, dễ tiếp nhận, trở thành “bài học sống” giữa đại ngàn. Từ không gian số, lớp trẻ còn đang trở thành “đại sứ văn hóa số”: nghệ nhân trẻ Chu Văn Thạch dạy hát Then, đàn Tính trên YouTube; nghệ sĩ A Páo (Ngô Sỹ Ngọc) quảng bá vẻ đẹp vùng cao bằng hàng nghìn video triệu view.
Văn hóa sẽ không thể bền nếu thiếu gốc tri thức. Chính vì vậy, việc xây dựng 17 trường nội trú liên cấp tại 17 xã biên giới được coi là bước đi chiến lược của Tuyên Quang trong xây dựng “vành đai văn hóa tri thức”. Đây không chỉ là nơi học chữ mà là trường học của lòng yêu nước, của niềm tự hào dân tộc. Tại đây, các em nhỏ người Mông, Dao, Tày... được học chữ Quốc ngữ, nhưng cũng được học hát Then, múa khèn, kể truyện cổ dân gian.
Tinh thần ấy thấm đẫm trong chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Chủ trương đầu tư xây dựng 248 trường nội trú liên cấp khu vực biên giới không chỉ để các cháu có điều kiện học tập tốt hơn, mà còn hướng tới mục tiêu lâu dài - giữ gìn chủ quyền lãnh thổ quốc gia từ gốc rễ: đó là con người, là cộng đồng gắn bó với đất, với rừng, với đường biên, cột mốc”.
Mặc dù Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng nhằm đầu tư, phát triển văn hóa; Tuyên Quang cũng chủ động triển khai nhiều mô hình, chương trình hiệu quả. Tuy nhiên, để văn hóa thực sự trở thành nguồn lực nội sinh thúc đẩy phát triển, vẫn cần những giải pháp căn cơ, dài hơi hơn nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi yêu cầu vừa phát triển, vừa bảo tồn ngày càng đặt ra gay gắt hơn.
Tiến sĩ Trần Hữu Sơn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Ứng dụng Văn hóa và Du lịch, cho rằng: quá trình sắp xếp, tinh gọn bộ máy hành chính và vận hành mô hình chính quyền hai cấp đang đặt ra nhiều thách thức mới cho công tác bảo tồn văn hóa. Nếu thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền cơ sở và cộng đồng cư dân, mạch nguồn văn hóa có thể bị đứt gãy.
Bởi vậy, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần sớm ban hành những chính sách đồng bộ hơn, gắn bảo tồn với không gian văn hóa sống nơi người dân được thực hành, trình diễn và duy trì các giá trị truyền thống. Đồng thời, cần quy định rõ trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc duy trì, hỗ trợ hoạt động văn hóa; xây dựng cơ chế tài chính linh hoạt, phù hợp với điều kiện từng vùng, từng dân tộc. Bên cạnh đó, ở nhiều địa phương, đội ngũ cán bộ văn hóa cơ sở còn mỏng, chuyên môn hạn chế; cơ chế đầu tư cho văn hóa dân tộc chưa tương xứng. Vì vậy, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và nâng tầm đội ngũ cán bộ văn hóa. Cùng với đó, việc liên kết phát triển văn hóa - du lịch giữa các vùng, xây dựng tua, tuyến trải nghiệm để du khách được “chạm” vào văn hóa, cũng là hướng đi cần được quan tâm nhằm vừa bảo tồn, vừa phát huy giá trị văn hóa truyền thống.
Giữ văn hóa là giữ cội nguồn, nhưng cũng cần biết “gạn đục khơi trong” - chọn lọc, kế thừa tinh hoa, loại bỏ những yếu tố không còn phù hợp. Bởi vẫn còn đó những trăn trở khi ở nhiều nơi, hủ tục vẫn len lỏi; người giữ lửa văn hóa ngày càng thưa vắng; tình yêu và sự gắn bó với văn hóa truyền thống trong lớp trẻ đang dần phai nhạt; và không gian để văn hóa “thở”, để được sống đúng nghĩa giữa đời sống hiện đại, vẫn còn thiếu vắng.
Rõ ràng, câu chuyện gìn giữ bản sắc không thể chỉ trông chờ vào chính sách hay dự án ngắn hạn, mà cần một chiến lược dài hơi - nơi mỗi người dân là chủ thể gìn giữ và sáng tạo văn hóa, mỗi cán bộ là người truyền lửa, và mỗi cộng đồng là không gian nuôi dưỡng bản sắc. Từ những miền đất như Tuyên Quang, nếu chúng ta biết trân trọng quá khứ, nuôi dưỡng hiện tại và kiến tạo tương lai bằng tinh thần văn hóa, thì không chỉ biên cương, mà cả tâm hồn dân tộc cũng sẽ vững vàng trước mọi biến thiên. Giữ văn hóa - ấy chính là giữ lấy tương lai.
Thực hiện: Mai Thông, Chúc Huyền, Thu Phương, Biện Luân, Giang Lam, Trần Kế











Ý kiến bạn đọc