Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính kiểm tra tiến độ thi công dự án sân bay Long Thành, tỉnh Đồng Nai_Nguồn: chinhphu.vn
Kiên định tinh thần, đường lối đổi mới - yếu tố sống còn của dân tộc, quyết định mọi thành công ở từng giai đoạn lịch sử
Tư duy, nhận thức về vấn đề đổi mới luôn tiềm tàng, hiện hữu trong hệ thống chính quyền, các tầng lớp lãnh đạo và nhân dân Việt Nam ngay từ những trang đầu lịch sử dựng nước và giữ nước, thể hiện rõ trong hàng loạt chiến công, thành tựu lớn lao gắn với nhân vật, sự kiện lịch sử nổi bật, quan trọng, như chiến thuật “nằm yên đợi giặc không bằng đem quân ra đánh để chặn thế mạnh của giặc” của danh tướng Lý Thường Kiệt trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược; chiến thuật “vườn không nhà trống”của nhà Trần khi đón đánh quân Mông - Nguyên; các triều đại phong kiến với nhiều cuộc cải cách trên nhiều lĩnh vực, như chính trị, quân sự, tài chính, kinh tế - xã hội và văn hóa giáo dục,… Đặc biệt, tháng 2-1930, sự kiện hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam đã phần nào thể hiện tinh thần đổi mới trong tư duy và hành động ở hoàn cảnh, thời khắc đặc biệt khó khăn của đất nước. Tất cả đều để lại nhiều bài học lớn từ yêu cầu về đổi mới tư duy và hành động để phù hợp với thời cuộc, mang lại hiệu quả cao hơn trong lãnh đạo, quản lý đất nước.
Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (năm 1930) và lãnh đạo cách mạng, nhiệm vụ đổi mới sáng tạo luôn được coi trọng, trở thành yêu cầu bức thiết, then chốt. Điều này thể hiện rõ ở sự thành công của Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) - sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, rằng “lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”(1). Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám đã thể hiện tầm nhìn, trí tuệ mẫn cảm trước thời cuộc, ý chí, quyết tâm lớn trong hành động, đặc biệt là tinh thần kiên quyết đổi mới tư duy, phương pháp giành chính quyền để Tổng khởi nghĩa đạt thắng lợi hoàn toàn, khi mà “Hoàn cảnh mới, nhiệm vụ mới bắt buộc Đảng ta phải có con đường chánh trị mới, con đường chánh trị mới lại bắt buộc phải có một đường tổ chức mới”(2).
Cả nước đồng thời thực hiện hai chiến lược cách mạng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là một sáng tạo lớn của Đảng ta trong những năm 1954 - 1975; với đường lối mang tính đổi mới mạnh mẽ để lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh phá hoại và làm nhiệm vụ của hậu phương lớn.
Sau khi đất nước được thống nhất (năm 1975), hai miền Bắc - Nam thu về một mối, hơn một thập niên sau, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước gắn liền với Đại hội VI của Đảng (năm 1986) được tiến hành. Trước đó, chúng ta mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng trong thời gian dài, nhất là sự lạc hậu về nhận thức lý luận, trạng thái bảo thủ, trì trệ bởi tư duy cũ, nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Bởi vậy, đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn lớn, đặc biệt là sự yếu kém trong quản lý, phát triển kinh tế, khiến cuộc sống người dân không thoát được tình trạng đói nghèo, chậm phát triển. Kể từ khi công cuộc đổi mới được khởi xướng, ngày càng đi sâu vào thực tiễn, Đảng và Nhà nước đã quan tâm khắc phục hạn chế, rào cản, kiên quyết xóa bỏ vướng mắc, điểm nghẽn trong phát triển đất nước; giữ vững tinh thần đổi mới nhằm tìm kiếm bước đi, nguồn lực, hình thức và biện pháp mới, phù hợp để đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiếp tục đi lên. Theo đó, qua gần 40 năm, thực tiễn đã chứng minh quyết định đổi mới là yếu tố quan trọng nhất để giúp đất nước chuyển mình mạnh mẽ. Từ một nơi bị chiến tranh tàn phá nặng nề, Việt Nam trở thành điểm đến của nhà đầu tư và khách du lịch quốc tế; lọt vào tốp 40 nền kinh tế hàng đầu; thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; được cộng đồng quốc tế biểu dương như một điểm sáng về xóa đói, giảm nghèo, đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng nâng lên(3). Cùng với đó, đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể; Chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục tăng; là một trong những nước đi đầu trong hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ(4). Hiện nay, nước ta đang trên đà phát triển nhanh chóng, toàn diện, bền vững, sức mạnh nội lực toàn dân tộc được bồi đắp ở mọi khía cạnh, vị thế, uy tín trên trường quốc tế được nâng lên một tầm cao mới, chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững(5), rằng “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(6).
Từ thực tiễn trên có thể kết luận rằng, chân lý để phát triển bền vững đất nước là đổi mới sáng tạo; trong đó, công cuộc đổi mới phải do Đảng khởi xướng, lãnh đạo toàn diện. Chặng đường 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước là minh chứng rõ nét nhất cho thành tựu lớn mà tinh thần đổi mới đem lại; thể hiện quá trình liên tục xóa bỏ cái cũ, lạc hậu để xây dựng cái mới tốt đẹp hơn, tạo ra lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất phù hợp trong bối cảnh mới, hướng đến xây dựng đời sống hạnh phúc, tiến bộ của cá nhân và xã hội(7). Qua đó, có thể thấy “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”(8), rằng chính trong từng chặng đường, giai đoạn mới, chúng ta đã phát triển trên quy luật “phủ định của phủ định”, khi từng bước loại bỏ mặt tiêu cực của cơ chế cũ, tạo ra những thay đổi to lớn trong đời sống lao động, sinh hoạt, văn hóa tinh thần của xã hội,...
Trong tình hình mới, các nước lớn tăng cường điều chỉnh chiến lược, cạnh tranh quyết liệt. Xung đột vũ trang, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, nhất là xung đột Nga - U-crai-na tác động nhiều mặt đến quốc gia. Xu hướng chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao, chiến tranh từ xa là phổ biến, đặt ra nhiều yêu cầu mới cấp thiết về quốc phòng,... Biển Đông, vùng biển Tây Nam tiềm ẩn nhiều bất trắc(9). Mặt khác, nhiều yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường,... có xu hướng ngày càng gia tăng(10). Thêm vào đó, chủ nghĩa dân tộc ngày càng có ảnh hưởng, chi phối sâu sắc đến tiến trình phát triển các quốc gia, vùng lãnh thổ, thậm chí ở bình diện khu vực và toàn cầu, việc phát huy tinh thần yêu nước, thắt chặt khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, góp phần ngăn chặn chủ nghĩa dân tộc cực đoan và tư tưởng ly khai trở nên cấp thiết. Trong khi đó, ở đất nước ta, các thế lực thù địch, phản động đang ra sức chống phá đất nước ngày càng mạnh mẽ, bằng nhiều phương thức, thủ đoạn thâm độc, khó lường dưới các chiêu trò, như đòi tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền,... hòng lợi dụng, kích động, mua chuộc một bộ phận người dân tiến hành chống phá đất nước, đồng thời hạ thấp, bôi nhọ, xuyên tạc vai trò lãnh đạo, uy tín của Đảng, Nhà nước ta(11),...
Đứng trước tình hình phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ nêu trên, vấn đề đổi mới nhằm đập tan rào cản cũ, lạc hậu để phù hợp với xu thế, bắt kịp dòng chảy hiện đại; khơi thông, khai phá mọi tiềm năng, phẩm chất ưu việt của con người Việt Nam,... một lần nữa trở thành nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa sống còn, quyết định thành công đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hướng tới sự phát triển bền vững trong tương lai. Công cuộc đổi mới cũng sẽ thúc đẩy hiệu quả việc “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế...”(12), đồng thời tạo nền tảng để từng bước hoàn thành đích đến “xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu”(13) trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm nhằm đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới ở đất nước ta hiện nay
Thứ nhất, kiên định nguyên tắc cốt lõi là giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quản lý nhà nước và xã hội - xem đây là yếu tố then chốt dẫn đến mọi thắng lợi của công cuộc đổi mới. Thống nhất nhận thức, quan điểm, kiên quyết, kiên trì, kiên định thực hiện mục tiêu định hướng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội - quy luật mang tất yếu của lịch sử, quyết định sự tồn vong dân tộc trong bối cảnh mới, lấy đó làm nền tảng xây dựng đất nước. Ngược về quá khứ, ở mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta đều có tầm nhìn, trí tuệ và tư tưởng đúng đắn, bao quát, nhận thức rõ trách nhiệm trước lịch sử dân tộc, từ đó hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo toàn dân đấu tranh để đi đến thắng lợi cuối cùng, trong đó vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội luôn được giữ vững là nền tảng vững chắc. Đặc biệt, trong bối cảnh diễn ra quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,... thì toàn Đảng phải một lòng trên dưới cùng đổi mới mạnh mẽ phương thức, năng lực lãnh đạo, cầm quyền, xứng đáng là lực lượng ngày càng “tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(14); tiên phong dẫn dắt toàn dân tộc tiến lên mạnh mẽ trong kỷ nguyên phát triển mới.
Thứ hai, nhiệm vụ tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước là yếu tố quyết định thành công sự nghiệp cách mạng của dân tộc, do đó phải “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng...”(15). Vấn đề cốt lõi trong phương thức cầm quyền của Đảng biểu hiện ở phương pháp, cách thức lãnh đạo, quản lý nhà nước và xã hội thông qua ban hành, triển khai thực hiện chủ trương, đường lối nhằm phát triển bền vững đất nước, theo đó phương thức lãnh đạo ngày càng phải phù hợp, hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu mới từ thực tiễn. Như vậy, cần từng bước nâng cao hiệu qua lãnh đạo thông qua hệ thống chính trị mà Đảng là hạt nhân, đổi mới chủ trương, đường lối, thế chế hóa thành chính sách, pháp luật của Nhà nước; đẩy mạnh vận động, thuyết phục quần chúng nhân dân cùng thực hiện. Quan trọng hơn, phải ý thức rằng chiến lược đổi mới, chuyển mình chỉ thành công khi thực sự được quần chúng nhân dân ủng hộ, tán thành, chú trọng gắn kết chặt chẽ giữa “ý Đảng” với “lòng dân”; đề cao vai trò của trí tuệ, sáng kiến của quần chúng nhân dân trên tinh thần “Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng ... Mà muốn hiểu biết, học hỏi dân chúng, thì ắt phải có nhiệt thành, có quyết tâm, phải khiêm tốn, phải chịu khó”(16).
Thứ ba, đổi mới toàn diện đất nước phải xuất phát từ nền tảng đổi mới tư duy, nhận thức, tư tưởng lý luận, bởi đây là cơ sở cho quá trình đổi mới từ việc đúc kết kinh nghiệm thực tiễn sáng tạo của dân tộc, thể hiện ở hệ thống lý thuyết có mối liên hệ biện chứng với nhau. Thực tế, nhiệm vụ đổi mới và phát triển tư duy lý luận là nhân tố đầu tiên quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo, nhất là trong những hoàn cảnh cam go, bước ngoặt lịch sử. Để có tư duy mới, sáng tạo, cần có sự kết hợp biện chứng giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên nền tảng giá trị truyền thống và tinh hoa văn hóa dân tộc cũng như hệ thống nhận thức mới về thế giới hiện đại. Một vấn đề quan trọng trong đổi mới tư duy là việc nhận thức, nhận định rõ thời cơ, thách thức trong từng hoàn cảnh; nhạy bén dự đoán xu thế phát triển của thế giới, đồng thời chuẩn bị điều kiện cần thiết, xác định phương thức kết hợp nhân tố bên trong với bên ngoài nhằm chớp lấy thời cơ quan trọng đẩy mạnh xây dựng, phát triển bền vững đất nước trong kỷ nguyên phát triển mới. Thời cơ là yếu tố có ý nghĩa quyết định tới thắng lợi của cách mạng; ngày nay, Việt Nam bước vào quá trình hội nhập sâu rộng, do đó phải luôn tận dụng thời cơ, vận hội, vượt qua thách thức, xử lý “nhiều vấn đề chiến lược mới đặt ra cần phải giải quyết”(17) - bài học từ sự thành công của Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) và công cuộc đổi mới từ năm 1986 đã chứng minh điều này.
Trong bối cảnh quốc tế tiếp tục có diễn biến mới, phức tạp, khó lường; đất nước hướng đến các mục tiêu phát triển trên những cột mốc trọng đại vào năm 2025, 2030, 2045..., yêu cầu về tầm vóc, trình độ tư duy lý luận của Đảng ta phải được đổi mới và nâng cao ngang tầm mục tiêu, tầm nhìn chiến lược, đủ ưu việt để xóa bỏ lực cản của tư duy lỗi thời, lạc hậu, trì trệ, nguy cơ kéo lùi sự phát triển. Đặc biệt, các cuộc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận lớn trong thời gian tới, như tổng kết 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (giai đoạn 1986 - 2026) phải góp phần hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tạo cơ hội để Đảng ta đổi mới, phát triển tư duy lý luận, trí tuệ và năng lực cầm quyền lên tầm mức tương xứng, đáp ứng yêu cầu giai đoạn phát triển mới của đất nước. Cùng với đó, nâng cao hơn nữa nhận thức của cấp ủy về vị trí, vai trò của công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan nghiên cứu lý luận ở Trung ương; phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu ở địa phương, đơn vị đối với nhiệm vụ đổi mới công tác lý luận.
Thứ tư, kiên định mục tiêu cao nhất của đổi mới là gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an sinh xã hội, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc, vì mục tiêu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đổi mới cách thức tổ chức, triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong thực tiễn về phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường sống an toàn, bình yên, trong sạch. Chú trọng củng cố, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế, giữ vững sự phát triển ổn định, an toàn của hệ thống tổ chức tài chính, thị trường tiền tệ, bất động sản,...; tiếp tục ưu tiên cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, hướng tới mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững, thực chất hơn. Đặc biệt, chính sách kinh tế phải thống nhất với chính sách xã hội, lấy sự phát triển toàn diện của con người làm mục tiêu, là thước đo và động lực của sự phát triển; nghiên cứu, ban hành chính sách mới nhằm phát triển văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, từng bước thu hẹp sự chênh lệch về thu nhập, khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, miền; bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và Chỉ số hạnh phúc của con người.
Mặt khác, khi bước vào giai đoạn mới, nền kinh tế có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ, các doanh nghiệp muốn nâng cao năng lực cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu phải chú trọng đổi mới sáng tạo, xây dựng nền tảng vững chắc cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng, qua đó dần định hình văn hóa đổi mới sáng tạo trong cộng đồng doanh nghiệp; thể hiện trình độ mới, hiệu quả trong sản xuất dựa trên nền tảng ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ để tạo ra chất lượng, giá trị mới. Cần nhận thức rằng chính đổi mới sáng tạo là yếu tố then chốt để doanh nghiệp nâng cao năng lực thích ứng với bối cảnh mới, thúc đẩy tăng trưởng, xác lập vị thế của người dẫn dắt và thay đổi cuộc chơi trên thị trường. Nhà nước cũng cần tiếp tục có chính sách mới, đặc thù để khơi dậy cảm hứng cống hiến của đội ngũ trí thức, doanh nhân, bảo đảm vai trò nòng cốt của họ trong khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo doanh nghiệp, qua đó hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam; phát huy vai trò đầu tàu, dẫn dắt nền kinh tế đất nước của các địa phương trọng điểm, như Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, thành phố Cần Thơ,...
Thứ năm, đổi mới sáng tạo phải được tiến hành đồng thời, đồng bộ cả trong tư duy lẫn hành động, được triển khai trên toàn diện mọi lĩnh vực, từ kinh tế, văn hóa, chính trị, đối ngoại,...; bắt đầu từ đổi mới cách nghĩ, cách làm, đổi mới tư duy, nhất là tư duy phát triển kinh tế, tiếp đến là đổi mới phong cách làm việc, tổ chức và cán bộ. Hiện nay, vấn đề tập trung nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng hợp cần được nhìn nhận phù hợp, tránh lối tư duy xem xét, phân tích đánh giá vấn đề một cách biệt lập và chỉ nhìn vào một thành tố duy nhất, ngược lại, phải xuất phát từ điều kiện cụ thể của đất nước để xác định đâu là yếu tố đóng vai trò tiên quyết, mang tính chiến lược, lâu dài. Theo đó, phải xem nguồn nội lực luôn là nội dung quyết định; mặt khác, tranh thủ thu hút, tận dụng tối đa điều kiện thuận lợi và nguồn lực từ bên ngoài; quy tụ được các tầng lớp, thành phần dân tộc gắn với tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ từ lực lượng quốc tế,...
Cùng với đó, ưu tiên tận dụng thành tựu khoa học - công nghệ của nhân loại để đổi mới phương pháp giáo dục - đào tạo, hội nhập quốc tế sâu rộng... theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, góp phần xây dựng được lực lượng nguồn nhân lực cao của Việt Nam có trình độ học vấn, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ cao, tiến tới chuẩn quốc tế. Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách mới, phù hợp nhằm khai thác, phát huy cao nhất giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp đất nước theo tinh thần “phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”(18).
Thứ sáu, đổi mới là sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn hệ thống chính trị, trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải là lực lượng tiên phong, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì sự nghiệp chung. Mặt khác, để công cuộc đổi mới thành công, phải không ngừng nâng cao chất lượng công tác đánh giá cán bộ theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, có tiêu chí và thông qua sản phẩm cụ thể; gắn đánh giá cá nhân với tập thể, với kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị; coi trọng tố chất, trạng thái linh hoạt, toàn quá trình trong môi trường, hoàn cảnh, điều kiện có nhiều khó khăn, phức tạp gắn với tinh thần cầu thị, khả năng khắc phục hạn chế, thích ứng với cái mới. Đổi mới phương thức đánh giá, quản lý, sử dụng hiệu quả cán bộ, tôn vinh, nhân rộng, phát triển cán bộ tốt, có đức, có tài và phân loại được cán bộ hạn chế, yếu kém, “kịp thời miễn nhiệm, cho từ chức, thay thế cán bộ năng lực hạn chế, uy tín thấp, mắc sai phạm mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm”(19) theo tiêu chuẩn ở Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9-5-2024, của Bộ Chính trị, về “Quy định về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới”; bảo đảm chuẩn mực đạo đức, lối sống, khắc phục tình trạng cán bộ, công chức, viên chức sợ trách nhiệm, thiếu bản lĩnh trên tinh thần Nghị định số 73/NĐ-CP, ngày 29-9-2023, của Chính phủ, về “Nghị định quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”. Bên cạnh đó, khai thác, nâng cao vai trò nòng cốt, chủ thể và sức sáng tạo vĩ đại của nhân dân, đặc biệt là đội ngũ công nhân, góp phần “Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng”(20); đồng thời, phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong tình hình mới nhằm trong tạo động lực, kiến thiết sức mạnh tổng hợp, toàn diện của dân tộc thực hiện sứ mệnh bảo vệ, phát triển bền vững đất nước trong kỷ nguyên mới; hướng tới khát vọng đất nước ta sẽ “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu” trong thế kỷ XXI, cũng là mong ước cháy bỏng của toàn dân tộc ta và hoàn thành tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại ./...
PGS, TS Nguyễn Ngọc Hà - Nguyễn Tất Trường
Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản - Tạp chí Cộng sản
----------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, t. 7, tr. 25
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 222
(3) Xem: GS. TS. Tô Lâm: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng - Yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới”, Tạp chí Cộng sản, số 1.046 (tháng 9-2024), tr. 18 -19
(4) Xem: Nguyễn Quốc Thái: “Lý luận về đường lối đổi mới, phát triển kinh tế thị trường - Những giá trị cốt lõi và những nội dung cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 31-7-2023, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/827698/ly-luan-ve-duong-loi-doi-moi%2C-phat-trien-kinh-te-thi-truong----nhung-gia-tri-cot-loi-va-nhung-noi-dung-can-tiep-tuc-bo-sung%2C-hoan-thien.aspx
(5) Xem: Lê Hữu Nghĩa: “Cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín, sức mạnh tổng hợp của quốc gia - dân tộc sau gần 35 năm đổi mới”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 20-10-2020, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/gop-y-du-thao-cac-van-kien-trinh-dai-hoi-xiii-cua-dang/-/2018/820121/co-do%2C-tiem-luc%2C-vi-the%2C-uy-tin%2C-suc-manh-tong-hop-cua-quoc-gia---dan-toc-sau-gan-35-nam-doi-moi.aspx
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 322
(7) Xem: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2004, t. 7, tr. 504 - 505
(8) Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2006, t. 47, tr. 807
(9) Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời ký mới”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 174
(10) Văn kiện Đại hội thời kỳ đổi mới - Phần II (Đại hội X, XI, XII), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 398
(11) Xem: Hoàng Phúc Lâm: “Hoàn thiện định hướng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 1-6-2023, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/hoan-thien-dinh-huong-bao-ve-to-quoc-viet-nam-xa-hoi-chu-nghia-trong-tinh-hinh-moi
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 155 - 156
(13) GS. TS. Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 1.050 (tháng 11-2024), tr. 3
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 301
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 109
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 333
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 8
(18) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 110 - 111
(19) Xem: Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá””
(20) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 180
Gửi phản hồi
In bài viết