Suốt hơn thế kỷ qua, biết bao người đã yêu Tây Nguyên theo cách riêng của mình và đã mong được hiểu, nhưng yêu nhiều mà hiểu vẫn chưa bao nhiêu. Văn hóa cổ truyền Tây Nguyên mãi là dòng chảy bất tận và tồn tại trong những nghịch lý phát sinh cần được giải quyết...
Văn hóa các dân tộc Tây Nguyên chỉ có thể bảo tồn bền vững trong không gian các buôn làng.
Ảnh: Vũ Quỳnh Phương
1. Tôi cũng yêu và cảm nhận Tây Nguyên theo cách của mình. Cũng như nhiều người, vì yêu nên cái nhìn về văn hóa bản địa đôi lúc vẫn cảm tính. Bình tĩnh hơn, chợt nhận ra, có những điều cần phải kiểm chứng trong hoàn cảnh tự nhiên và xã hội đang có những biến động, dịch chuyển nhanh chóng. Một vùng văn hóa Tây Nguyên đã và đang có những đổi khác rất rõ ràng so với những gì mà các nhà nghiên cứu như Henri Maitre, Georges Condominas, Sabatier, Jacque Dournes rồi Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi, Phan Đăng Nhật, Đặng Nghiêm Vạn, Tô Ngọc Thanh, Ngô Đức Thịnh... từng ấn định như những giá trị nguyên thủy bất biến.
Mỗi lần có dịp lang thang trên những nẻo đường rừng xưa núi cũ, nơi những buôn làng heo hút, tít tắp mờ xa dưới chân Trường Sơn Nam, tâm hồn tôi lại ám ảnh với những ca từ và giai điệu khắc khoải của ca khúc “Đi tìm lời ru mặt trời” của nhạc sĩ Yphôn K’sor: “Một mình lang thang trên đất này, theo dấu chân cha ông từng ngày. Một mình qua sông, qua núi đồi, tìm mặt trời và tìm lời ru ngàn đời...”. Với giai điệu thuần chất Ê Đê, Yphôn K’sor đã tự tình thay nỗi lòng biết bao chàng trai, cô gái núi “da nâu, mắt sáng, vóc dáng hiền hòa”. Một thế hệ muốn được “hát giữa mọi người không ngại ngần” như khẳng định về sự tồn tại với thời cuộc hiện đại đang đổi thay từng ngày. Họ cũng đang tìm cách níu giữ những không gian, những khoảnh khắc huyền thoại. Họ muốn đổi thay và phát triển nhưng lại chưa biết tìm con đường nào để không đánh mất bản sắc dân tộc mình, không đánh mất những gì cha ông họ đã ngàn đời tích góp, lưu giữ như những di sản vô giá trước vòng quay nghiệt ngã của thời gian.
Những ca từ và giai điệu của Yphôn K’Sor, của Linh Nga Niê K’Đăm, của K’razăn Đich, K’razăn K’Plin... cuồng nhiệt và thẳm sâu. Những thông điệp của niềm khát khao cần một sự sẻ chia, một lời giải đáp. Những đứa con của đại ngàn yêu biết bao những ngôi nhà dài, những bến nước xưa, những bức tượng nhà mồ đầy ma lực, tiếng chiêng khắc khoải đêm trường hay những đêm khan huyễn hoặc giữa hai miền mơ thực. Họ khao khát được đắm chìm trong ngôn ngữ tộc người, trong dòng chảy văn hóa của xứ sở mình.
2. Tôi không hiểu nhiều về họ nhưng tôi hiểu nỗi âu lo của họ. Họ đi ra với thị thành, với rộng dài đất nước, tiếp xúc với những nền văn hóa khác nhau. Họ tìm đến cái mới và thích nghi dần với đời sống hiện đại. Nhưng nơi họ trở về với chính tâm thức của mình vẫn là làng buôn, nương rẫy, núi rừng, với thiên nhiên bí ẩn mà gần gũi. Đêm đêm, bên bếp lửa nhà sàn giữa những người đồng tộc, khi cần rượu trên chiếc chóe cổ ngấm men lúa mẹ nồng nàn vít xuống là lúc tiếng chiêng ngân lên những giai điệu thiết tha. Vồng ngực căng buông thả tự nhiên, lưng trần đóng khố, họ hiện thân tràn căng sức sống giữa vũ trụ phồn sinh. Những chàng trai, cô gái Ê Đê, Ba Na, Mơ Nông, Châu Mạ, Kơ Ho... uống dòng nước nguồn của những con sông K’rông Nô, K’rông Ana, Serepok, Đa Dâng, Đa Nhim không thể lớn lên, không thể vững vàng khi rời bỏ cội nguồn, xa lạ với không gian văn hóa mà ông cha đã dày công gìn giữ và bồi đắp.
Những giá trị văn hóa cổ truyền đang đứng trước nguy cơ phai nhạt nhưng những người con Tây Nguyên vẫn mãi lưu tồn tình yêu tha thiết với làng buôn của mình, yêu trong cảm thức níu kéo nền văn hóa ngàn đời của ông cha truyền lại. Một tình yêu như máu chảy trong huyết quản, như lửa đốt trong tâm can. Một tình yêu như niềm tiếc nuối những gì đang dần rời bỏ. Vì sao mà văn hóa cổ truyền mai một? Lý do quan trọng nhất là không gian thực hành văn hóa đang dần bị xâm hại, đó là: Rừng và làng...
Người ta thường nói, người Tây Nguyên có tính cộng đồng rất cao, thì tính cộng đồng đó là tính cộng đồng làng, thậm chí “tính làng” còn sâu đậm và cụ thể hơn cả ý thức tộc người. Làng Tây Nguyên từng là một thiết chế xã hội bền vững và quy củ. Làng được điều hành bằng “hội đồng già làng”, là tập hợp những người hiền minh nhất của làng. Hội đồng già làng từng quản lý, điều hành mọi hoạt động của làng bằng một “hệ thống luật pháp” cổ truyền đặc biệt: Luật tục. Cho đến nay, luật tục Tây Nguyên vẫn tồn tại song hành cùng luật pháp và những mặt tích cực vẫn được phát huy giá trị trong quản lý xã hội...
Làng Tây Nguyên là một kết cấu “làng rừng” - một không gian thực hành văn hóa và tín ngưỡng lý tưởng cho các tộc người, nó bao hàm: Một cộng đồng cư trú, một cộng đồng sở hữu và lợi ích, một cộng đồng tâm linh, một cộng đồng văn hóa. Nói khái quát, đó là một không gian văn hóa. UNESCO hết sức tinh tế khi công nhận “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại, mà không phải chỉ là “cồng chiêng” hay “âm nhạc cồng chiêng”. Không gian đó là rừng và làng. Bởi lẽ họ hiểu rằng, khi không còn không gian thực hành đó nữa, văn hóa cồng chiêng cũng như những giá trị văn hóa quý giá khác sẽ khó có điều kiện bảo tồn, phát huy.
Rừng, với người Tây Nguyên không chỉ là nguồn tài nguyên, không chỉ là hệ sinh thái mà rừng chính là cội nguồn của đời sống tâm linh. Trong thẳm sâu tâm hồn họ có một tình cảm ruột thịt và lòng kính trọng thiêng liêng đối với rừng. Họ coi cây rừng đúng như một sinh vật sống, cũng tràn đầy cảm xúc, cũng vui sướng, hạnh phúc, khổ đau, cũng có linh hồn. Khi buộc phải chặt hạ một cây rừng cho nhu cầu thiết yếu, bao giờ người Tây Nguyên cũng ân cần làm lễ xin lỗi cây, tạ ơn rừng. Người Tây Nguyên sống theo “đạo đức của rừng”, vươn tới sự hoàn thiện, hiền minh như rừng. Rừng là không gian sinh tồn, theo nhà dân tộc học George Condominas còn là “không gian xã hội”, và là cội nguồn của tâm linh, phần sâu xa nhất của đời sống con người. Mất rừng thì cộng đồng người mất đi cái nền rộng lớn, bền chặt, thẳm sâu nhất của mình, trở nên tha hóa, mất gốc, mất cội nguồn. Văn hóa Tây Nguyên là văn hóa rừng. Toàn bộ đời sống văn hóa đó, từ hệ giá trị đến những tín hiệu nhỏ đều là biểu hiện mối quan hệ khăng khít, máu thịt của con người, của cộng đồng với rừng. Khi không còn rừng thì tất yếu văn hóa rừng sẽ mai một.
3. “Ngày ấy đâu rồi, ngày ấy đâu rồi, cho tôi tìm lại...”. Lời hát ấy nói thay tâm trạng của những người con trên đại ngàn Tây Nguyên. Không gian huyền thoại dần trở về với dĩ vãng. Những buôn làng đồng bào thiểu số không còn gì nhiều để phân biệt với nhau và với làng người Kinh. Họ ăn mặc như nhau và cũng giống người Kinh. Nhà khá giả thì xây biệt thự, đi làm rẫy bằng xe ô tô, xe máy đời mới. Sinh hoạt truyền thống cộng đồng buôn làng không được quan tâm như trước. Bia lạnh thay cho rượu cần. Những bến nước nguồn thiêng không còn được chăm chút. Những nghệ nhân dân gian dần ra đi, để lại khoảng trống không thể bù đắp. Sợi dây thắt chặt một cộng đồng văn hóa dường như đang lơi lỏng, tuột dần theo nhịp sống hiện đại...
Người Tây Nguyên đang thực sự lo lắng khi phải chứng kiến những biến động theo chiều mai một dần của hệ thống giá trị văn hóa cổ truyền. Một mai những vốn quý ngàn đời không còn, không biết Tây Nguyên còn gì hấp dẫn?!
Gửi phản hồi
In bài viết