Văn hóa Mường - “nguồn lực mềm” của du lịch Suối Hai
Trên những cung đường uốn lượn dưới chân Vườn Quốc gia Ba Vì, Suối Hai hiện lên như bức tranh đa sắc: Tiếng cồng ngân nga trong chiều, mái nhà sàn mới dựng bên những nếp nhà Mường cổ xen lẫn những kiểu nhà cách tân, khói bếp ủ hương cơm lam quyện hơi nước bảng lảng từ lòng hồ.
Suối Hai đang là xã có nhiều người Mường nhất của Hà Nội, cùng với đó là những nét văn hóa vật thể và phi vật thể truyền thống độc đáo. Đó cũng là nơi văn hóa bản địa đang trở thành “nguồn lực mềm” cho du lịch.

Biểu diễn nghệ thuật, văn hóa Mường phục vụ khách du lịch tại Khu Du lịch Ao Vua.
Du lịch đánh thức bản sắc
Theo Trưởng phòng Văn hóa - Xã hội xã Suối Hai Bùi Huy Giáp, sau sáp nhập và sắp xếp lại đơn vị hành chính, Suối Hai hiện có hơn 51,5km² diện tích tự nhiên, 24 thôn với 35.201 nhân khẩu, trong đó gần 39% là đồng bào các dân tộc thiểu số. Trên địa bàn có 21 di tích tôn giáo, tín ngưỡng, tạo không gian văn hóa phong phú, giàu chiều sâu. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền và sự đồng lòng của cộng đồng, đời sống của bà con dân tộc không ngừng cải thiện; hạ tầng thiết yếu được đầu tư; các chương trình, dự án dành cho vùng dân tộc thiểu số phát huy hiệu quả rõ rệt. Xã không còn hộ nghèo, bản sắc văn hóa truyền thống tiếp tục được giữ gìn, đặc biệt là công tác bảo tồn cồng chiêng, ngôn ngữ, trang phục, nếp sinh hoạt... của người Mường địa phương.
Trao đổi với phóng viên Báo Hànộimới, Phó Chủ tịch UBND xã Suối Hai Lê Hào Quang cho biết: Cốt lõi của phát triển du lịch ở địa bàn đông đồng bào dân tộc thiểu số là để người dân được làm chủ không gian văn hóa. Mặt trận cùng các đoàn thể, chính quyền địa phương đang vận động bà con gìn giữ tiếng Mường, bảo tồn nghề dệt, khôi phục các đội cồng chiêng không chỉ phục vụ lễ hội mà trở thành sản phẩm du lịch bền vững.
Với người Mường Suối Hai, cồng chiêng không chỉ là nhạc cụ mà là tiếng nói của tổ tiên; sắc bùa không chỉ là điệu hát mà là lời cầu phúc gửi vào mùa màng; tấm váy thổ cẩm không chỉ là trang phục mà là cả lịch sử, phong tục, tín ngưỡng... Ở Suối Hai, tất cả những nét văn hóa ấy hiện hữu, gìn giữ qua từng gia đình, từng nghệ nhân, qua nhịp sống lao động thường ngày... "Ngày xưa, tôi chỉ đánh cồng vào dịp lễ hội. Bây giờ có khách du lịch đến, bà con được biểu diễn thường xuyên hơn. Vui nhất là con cháu trong thôn hào hứng học lại tiếng Mường, học múa sạp, hát sắc bùa. Nhờ khách du lịch mà văn hóa của mình sáng hơn, sống hơn" - nghệ nhân Đinh Công Nghĩa - đội cồng chiêng thôn 8 xã Suối Hai chia sẻ.
Vùng đất này đang thay đổi từng ngày. Đường vào các thôn Cua Chu, Gò Sống, Bát Đầm, Ké Mới... nơi đông bà con dân tộc Mường sinh sống đã rộng mở hơn, những ngôi nhà sàn homestay khang trang hơn, bà con có thêm thu nhập từ dịch vụ ẩm thực và biểu diễn nghệ thuật dân gian, lớp trẻ tự tin biểu diễn cồng chiêng cho du khách và những tấm thổ cẩm nhiều màu sắc theo chân du khách đến khắp nơi... Anh Bùi Văn Hiệp ở thôn Ké Mới, xúc động nói: "Ngày trước, người trẻ chúng tôi ngại dùng tiếng Mường. Giờ khách du lịch thích nghe, thích tìm hiểu văn hóa Mường, nên chúng tôi thấy tự hào hơn về dân tộc mình. Du lịch không chỉ mang lại thu nhập mà còn cho chúng tôi cơ hội thấy văn hóa của mình đẹp đến mức nào”. Thực tế ấy phản ánh đúng xu hướng: Du lịch đang trở thành động lực mới cho vùng đồng bào dân tộc Mường ở Suối Hai.
Du lịch và văn hóa bản địa cùng kiến tạo tương lai
Theo Chủ tịch UBND xã Suối Hai Nguyễn Ngọc Mạnh, trong quy hoạch phát triển giai đoạn mới, Suối Hai đang lồng ghép bảo tồn văn hóa Mường vào từng dự án du lịch. Các khu vực người Mường sinh sống sẽ được giữ gìn không gian đặc trưng; các thôn có tiềm năng sẽ phát triển mô hình du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa, nông nghiệp, sinh thái. Suối Hai mong muốn du khách cảm nhận được nếp sống Mường, văn hóa Mường, chứ không phải những mô hình du lịch sao chép. Bảo tồn văn hóa là điều kiện tiên quyết.
Xã đang đẩy mạnh việc sưu tầm Mo Mường, khôi phục lễ hội truyền thống, mở lớp dạy tiếng Mường cho thanh, thiếu niên, hỗ trợ nghệ nhân truyền dạy. Nhiều thôn bắt đầu xây dựng nhà sinh hoạt văn hóa Mường, hướng tới hình thành bảo tàng cộng đồng và làng nghề thổ cẩm phục vụ du lịch. Nhờ đó, những giá trị tưởng chừng chỉ còn trong ký ức đang dần trở lại đời sống. Các mô hình du lịch trải nghiệm như homestay nhà sàn Mường; tour cồng chiêng sắc bùa; trải nghiệm ẩm thực cơm lam, ống lồ ô, bánh chéo kheo; học dệt thổ cẩm; khám phá lễ hội dân gian... đang thu hút du khách. Suối Hai cũng đang hoàn thiện chuỗi giá trị du lịch từ lưu trú, ẩm thực, biểu diễn, sản phẩm thủ công để người dân được hưởng lợi trực tiếp. Xã đã mở các lớp hướng dẫn du lịch cộng đồng, kỹ năng làm homestay, kỹ năng giao tiếp và ứng xử văn hóa cho người dân với tinh thần "bà con Mường không đứng ngoài cuộc, mà là người dẫn dắt du lịch phát triển".
Ngoài ngân sách, Suối Hai tích cực kêu gọi doanh nghiệp đầu tư du lịch sinh thái, du lịch văn hóa; khuyến khích các tổ chức quốc tế hỗ trợ dự án bảo tồn văn hóa và phát triển du lịch cộng đồng; đồng thời bảo đảm kiểm soát chặt chẽ việc khai thác tài nguyên để không đánh đổi môi trường. Xã đang xây dựng bộ nhận diện du lịch gắn với văn hóa Mường; sản xuất ấn phẩm du lịch song ngữ; đẩy mạnh truyền thông số; tổ chức các sự kiện văn hóa thường niên. Việc kết nối Suối Hai với các điểm du lịch: Ba Vì, hồ Suối Hai, K9 - Đá Chông, khu du lịch Ao Vua... đang tạo thành tuyến trải nghiệm văn hóa sinh thái hoàn chỉnh. Xã hướng tới liên kết với các địa phương có người Mường sinh sống để chia sẻ kinh nghiệm bảo tồn và làm du lịch cộng đồng.
Về điều này, Bí thư Đảng ủy xã Suối Hai Đỗ Mạnh Hưng chia sẻ, phát triển du lịch phải bắt đầu từ bảo tồn văn hóa. Bản sắc Mường không chỉ là giá trị tinh thần của cộng đồng mà còn là lợi thế cạnh tranh của Suối Hai trong thời kỳ hội nhập. Suối Hai xác định hướng phát triển bền vững, bản sắc, hài hòa để mỗi người dân đều được hưởng thành quả. Để bảo tồn và phát huy hiệu quả bản sắc Mường, xã kiến nghị thành phố ưu tiên đầu tư phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt ở các thôn 6, 7, 8, 9, Gò Sống, Bát Đầm, Cua Chu, Ké Mới; có cơ chế hỗ trợ mô hình du lịch cộng đồng do người Mường làm chủ; ban hành chính sách khuyến khích bảo tồn văn hóa phi vật thể (Mo Mường, sắc bùa, cồng chiêng...); có chương trình đào tạo nghề du lịch riêng cho thanh niên và phụ nữ Mường; đầu tư hạ tầng số, hạ tầng giao thông kết nối các điểm du lịch... Những chính sách này sẽ không chỉ giúp đồng bào xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống mà còn lan tỏa giá trị văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập.
Theo Hanoimoi










Ý kiến bạn đọc