Kiến tạo hệ sinh thái quản trị hiện đại cho sức mạnh mềm Việt Nam
![]() |
| PGS.TS Bùi Hoài Sơn Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội. |
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng đang tiếp tục được lấy ý kiến rộng rãi trong Nhân dân, mở ra một thời khắc quan trọng để cả hệ thống chính trị và toàn xã hội cùng chung suy nghĩ, chung khát vọng và chung trách nhiệm đối với tương lai đất nước. Trong đó, tư tưởng về hoàn thiện thể chế và thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa nổi lên như một trong những điểm mới lớn, phản ánh bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lãnh đạo của Đảng: xây dựng văn hóa bằng sức mạnh của khoa học – công nghệ, bằng sức mạnh của quản trị hiện đại, bằng sức mạnh của đổi mới sáng tạo, để văn hóa thực sự trở thành nguồn lực nội sinh, động lực tinh thần và sức mạnh mềm đưa Việt Nam vươn lên tầm cao mới.
Thể chế luôn là nền tảng cốt lõi để giải phóng năng lực phát triển. Lịch sử của đổi mới Việt Nam suốt gần bốn thập kỷ qua cho thấy, mỗi bước tiến về tư duy thể chế đều mở ra một không gian phát triển mới. Trong lĩnh vực văn hóa, tư duy này đang được nâng lên một tầm cao mới trong Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV. Văn hóa không chỉ được nhìn nhận như hệ giá trị tinh thần, mà còn như một lĩnh vực chiến lược cần được điều tiết và thúc đẩy bằng cơ chế, chính sách và hệ thống pháp luật hiện đại.
Thế giới đang chứng kiến sự thay đổi sâu sắc: sức mạnh mềm ngày càng trở thành thước đo vị thế quốc gia; các ngành công nghiệp sáng tạo đóng góp hàng nghìn tỷ USD vào kinh tế toàn cầu; công nghệ số định hình phương thức sản xuất, tiêu dùng và tương tác xã hội; và di sản văn hóa không chỉ được trưng bày mà được “số hóa” để sống động trong không gian mạng. Trong bối cảnh ấy, thể chế văn hóa không thể chỉ dừng ở việc bảo tồn hay tuyên truyền; nó phải chuyển sang vai trò kiến tạo - tạo hành lang pháp lý, tạo điều kiện, tạo nguồn lực và tạo động lực để văn hóa phát triển mạnh mẽ, bền vững.
Dự thảo Báo cáo chính trị khẳng định quyết tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về văn hóa, đi đôi với nâng cao năng lực quản lý nhà nước, coi đây là nhiệm vụ chiến lược. Điều này xuất phát từ thực tế: nếu không có thể chế phù hợp, văn hóa sẽ bị “đóng khung” trong mô hình quản lý cũ; nếu không có quản trị hiện đại, môi trường văn hóa dễ bị tác động bởi thương mại hóa cực đoan, nội dung độc hại và sự phân hóa giá trị. Ngược lại, một thể chế tiến bộ sẽ giúp văn hóa lan tỏa sâu vào đời sống, trở thành động lực phát triển bền vững, nuôi dưỡng bản sắc và sức mạnh tinh thần của dân tộc.
Trên cơ sở đó, yêu cầu đặt ra là xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật về văn hóa, bao gồm Luật Văn hóa, cơ chế dành cho công nghiệp văn hóa, cơ chế chính sách cho các thiết chế văn hóa, hệ thống bảo hộ bản quyền số, chính sách thuế - tín dụng - tài chính cho sản phẩm văn hóa và sáng tạo, cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nội dung số, cùng những quy định mới về quản trị văn hóa trong không gian mạng. Đây không phải là việc “thêm văn bản”, mà là kiến lập một hạ tầng thể chế mới, tương thích với kỷ nguyên số và kinh tế tri thức.
Đặt vấn đề chuyển đổi số văn hóa trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV cho thấy Đảng ta nhìn nhận rõ xu thế: văn hóa đang bước vào không gian số với tốc độ chưa từng có; nghệ thuật, truyền thông, giáo dục, lưu trữ, bảo tàng, thậm chí lễ hội và không gian văn hóa cộng đồng đều đã chuyển mình theo công nghệ mới; trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, blockchain, thực tế ảo đang thay đổi cách chúng ta sáng tạo, quản lý và tiếp nhận văn hóa.
Vì vậy, hoàn thiện thể chế văn hóa phải đi đôi với xây dựng hệ sinh thái văn hóa số. Điều này bao gồm: số hóa di sản và tư liệu văn hóa dân tộc; xây dựng nền tảng và cơ sở dữ liệu văn hóa quốc gia; phát triển hệ sinh thái sáng tạo số, bảo tàng số, thư viện số, nhà hát số; hoàn thiện cơ chế quản trị dữ liệu, quyền tác giả, quyền liên quan trong môi trường số; phát triển không gian mạng Việt Nam lành mạnh, định hướng giá trị tích cực; đào tạo nguồn nhân lực văn hóa số, có tư duy công nghệ và năng lực quản trị mới.
Chuyển đổi số văn hóa không chỉ là câu chuyện kỹ thuật. Đó là quá trình chuyển đổi nhận thức và phương thức quản lý. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo - đặt ra khung pháp lý, đầu tư nền tảng hạ tầng số, bảo vệ chủ quyền không gian mạng, tạo điều kiện để xã hội và thị trường đóng góp, trong khi cộng đồng sáng tạo và người dân là trung tâm của quá trình tạo sinh giá trị.
Một điểm quan trọng khác của Dự thảo là nhấn mạnh sự tham gia của Nhân dân vào việc xây dựng chính sách văn hóa. Sức sống văn hóa không đến từ chỉ thị hay khẩu hiệu, mà từ sự hưởng ứng tự nguyện, sáng tạo và niềm tin của người dân. Bởi vậy, lấy ý kiến rộng rãi để hoàn thiện văn kiện không chỉ là biểu hiện dân chủ, mà còn là phương thức để huy động trí tuệ, tình cảm, niềm tự hào dân tộc và khát vọng phát triển của toàn xã hội.
Tuyên Quang - vùng đất cách mạng linh thiêng, nơi Trung ương Đảng, Bác Hồ và Chính phủ từng đặt đại bản doanh lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp - chính là minh chứng sống động cho chân lý: chỉ khi văn hóa được đặt ở trung tâm của đời sống chính trị - xã hội, sức mạnh dân tộc mới được khơi dậy trọn vẹn. Với di sản văn hóa cách mạng to lớn và truyền thống đoàn kết, kiên cường, sáng tạo của đồng bào các dân tộc trên địa bàn, Tuyên Quang đang có những bước chuyển tích cực trong bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, gắn với du lịch, giáo dục và chuyển đổi số. Đây là nền tảng để địa phương tiếp tục đi đầu trong triển khai tư tưởng “lấy văn hóa làm động lực phát triển” mà Đảng đã xác định.
Hành trình tới Đại hội XIV đang mở ra một giai đoạn mới của đổi mới và hội nhập. Thế giới thay đổi, thách thức nhiều hơn, yêu cầu cao hơn. Nhưng chúng ta có đầy đủ cơ sở để tin tưởng: một quốc gia biết chăm lo văn hóa, nuôi dưỡng con người, hoàn thiện thể chế và làm chủ công nghệ sẽ có sức mạnh để vươn tới tương lai lớn.
Để văn hóa dẫn dắt phát triển, để chuyển đổi số văn hóa thật sự thành động lực và lợi thế cạnh tranh, cần sự chung tay của cả hệ thống chính trị, cộng đồng sáng tạo, doanh nghiệp và người dân. Mỗi cơ quan chính quyền phải đổi mới tư duy quản trị; mỗi địa phương phải phát huy giá trị văn hóa riêng, xây dựng bản sắc số; mỗi trường học phải đào tạo thế hệ trẻ có năng lực văn hóa và công nghệ; mỗi gia đình phải vun đắp giá trị tốt đẹp; và mỗi người dân phải là một “đại sứ văn hóa”, một người kiến tạo sức mạnh mềm Việt Nam.
Tương lai thuộc về những dân tộc có bản sắc mạnh, khát vọng lớn và khả năng làm chủ công nghệ. Việt Nam đang đứng trước thời cơ vàng để bứt phá. Khi thể chế được hoàn thiện, khi chuyển đổi số đi vào chiều sâu, khi văn hóa thật sự trở thành nguồn lực quốc gia, chúng ta sẽ có một Việt Nam tự tin, sáng tạo, nhân văn, tiên phong – không chỉ hòa nhập, mà còn góp phần định hình giá trị toàn cầu.
Chúng ta đang viết nên một chương mới của dân tộc: văn hóa làm gốc, trí tuệ làm lực, công nghệ làm cánh, khát vọng làm lửa. Và với niềm tin vào bản lĩnh Việt Nam, vào truyền thống cách mạng của quê hương Tuyên Quang - Thủ đô Khu giải phóng, Thủ đô kháng chiến - chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng: văn hóa sẽ dẫn lối, sức mạnh mềm sẽ nâng tầm, và Việt Nam sẽ vươn lên mạnh mẽ, tự tin bước vào kỷ nguyên mới với vị thế của một dân tộc hùng cường.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn
Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội











Ý kiến bạn đọc