Góp phần bảo vệ và phát triển rừng bền vững
Thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) theo Nghị định số 156/2018/NĐ-CP và Nghị định số 156 sửa đổi, bổ sung một số dịch vụ môi trường rừng mới, tỉnh Tuyên Quang đã chủ động triển khai nhiều giải pháp quản lý, sử dụng nguồn tiền chi trả DVMTR minh bạch, hiệu quả. Qua đó, góp phần nâng cao thu nhập, khuyến khích cộng đồng và người dân tích cực tham gia bảo vệ rừng, phát triển sinh kế bền vững.
Quản lý chặt chẽ, minh bạch, đúng đối tượng
Tuyên Quang hiện có hơn 852.789 ha rừng, trong đó rừng tự nhiên 620.891 ha, còn lại là rừng trồng sản xuất, tỷ lệ che phủ rừng đạt trên 62%. Tỉnh là một trong những địa phương có diện tích rừng lớn của vùng Đông Bắc. Chính sách chi trả DVMTR được xem là động lực quan trọng giúp địa phương bảo vệ được rừng đầu nguồn, nhất là các khu vực rừng phòng hộ gắn với các hồ chứa thủy điện Tuyên Quang, Chiêm Hóa, Nà Hang, Sông Nho Quế, Bắc Mê và các nhà máy thủy điện nhỏ trên địa bàn.
![]() |
| Cán bộ Hạt Kiểm lâm khu vực XI kiểm tra công tác quản lý, bảo vệ rừng tại xã Cao Bồ. |
Theo Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh, từ năm 2011 đến nay, tỉnh đã ký hợp đồng chi trả DVMTR với 100% đơn vị sử dụng theo quy định, bao gồm các doanh nghiệp thủy điện, nước sạch và cơ sở du lịch sinh thái. Bình quân mỗi năm, tỉnh thu khoảng trên 100 tỷ đồng tiền DVMTR; trong đó trên 90% được chi trả cho các chủ rừng là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn. Trong hơn 10 tháng năm 2025, toàn tỉnh đã có 643.000 ha/852.789 ha, chiếm 75,4% diện tích rừng toàn tỉnh được chi trả DVMTR.
Để đảm bảo công tác quản lý chặt chẽ, Tuyên Quang đã xây dựng hệ thống theo dõi, giám sát rừng bằng công nghệ GPS và bản đồ số. Việc khoanh định lưu vực, xác định ranh giới chi trả được cập nhật, rà soát định kỳ, tránh tình trạng trùng lặp hoặc bỏ sót diện tích. Các chủ rừng được tuyên truyền về quy trình bảo vệ rừng, phương pháp tuần tra, ghi chép nhật ký rừng, giúp nâng cao năng lực quản lý ở cơ sở.
Công tác chi trả DVMTR được công khai, minh bạch. Từ năm 2023 đến nay, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh đã phối hợp với các ngân hàng triển khai hình thức chi trả DVMTR qua tài khoản. Đến nay, hơn 85% chủ rừng đã nhận tiền qua hệ thống ngân hàng. Cách làm này không chỉ giảm thiểu sai sót, tiết kiệm chi phí quản lý mà còn góp phần thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực lâm nghiệp.
![]() |
| Lãnh đạo Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng kiểm tra công tác chi trả DVMTR tại xã Linh Hồ. |
Đồng chí Đinh Thị Hà, Giám đốc Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Tuyên Quang cho biết: “Chúng tôi đặc biệt chú trọng giám sát việc sử dụng tiền chi trả DVMTR đúng mục đích. Các chủ rừng, cộng đồng đều phải lập phương án sử dụng tiền rõ ràng, gắn với các hoạt động bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng. Mỗi đồng tiền DVMTR đều được sử dụng thiết thực, mang lại hiệu quả trực tiếp cho người dân”.
Nguồn lực thúc đẩy sinh kế và bảo vệ rừng bền vững
Thực tế cho thấy, chính sách chi trả DVMTR đã tạo ra nguồn thu ổn định, trở thành động lực để người dân gắn bó với rừng. Tại các xã vùng cao như Nà Hang, Thượng Lâm, Chiêm Hóa, Nấm Dẩn, Khuôn Lùng nguồn tiền chi trả đã giúp hàng nghìn hộ gia đình có thêm điều kiện phát triển kinh tế, góp phần giảm nghèo bền vững.
Ông Ma Văn Độ, thôn Nà Tông, xã Thượng Lâm chia sẻ: “Trước đây người dân chỉ coi rừng là nơi lấy củi, hái măng, nay họ xem rừng là tài sản mang lại thu nhập hàng năm. Mỗi hộ được nhận tiền công bảo vệ rừng nên ai cũng có ý thức giữ rừng, phòng cháy rừng trong mùa khô, trồng dặm khi rừng bị thiệt hại”.
Không chỉ mang lại lợi ích cho người dân, nguồn tiền chi trả DVMTR còn giúp các đơn vị quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng có thêm nguồn lực để đầu tư cho công tác tuần tra, bảo vệ và phục hồi rừng. Từ đó, chất lượng rừng được cải thiện, tỷ lệ che phủ tăng, hệ sinh thái rừng đầu nguồn được bảo tồn tốt hơn.
![]() |
| Chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng tại xã Sơn Vĩ. |
Ngoài chi trả cho chủ rừng, một phần nguồn quỹ còn được sử dụng để hỗ trợ hoạt động trồng cây phân tán, tuyên truyền bảo vệ rừng, xây dựng mô hình sinh kế dưới tán rừng như trồng dược liệu, nuôi ong lấy mật, phát triển du lịch sinh thái cộng đồng. Những mô hình này đã và đang mở ra hướng đi bền vững cho nhiều vùng nông thôn miền núi của tỉnh.
Đặc biệt, tỉnh Tuyên Quang còn đang thí điểm mô hình chi trả DVMTR trong du lịch sinh thái tại Khu du lịch sinh thái Nà Hang - Lâm Bình. Các doanh nghiệp, hộ kinh doanh du lịch tham gia khai thác cảnh quan rừng phải đóng góp một phần doanh thu để chi trả cho bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng. Đây được xem là bước đi mới, thể hiện tư duy khai thác dịch vụ rừng đi đôi với bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
Để chính sách DVMTR tiếp tục phát huy hiệu quả, tỉnh Tuyên Quang tập trung nâng cao chất lượng quản lý rừng gắn với chuyển đổi số trong lĩnh vực lâm nghiệp. Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh thuộc Sở Nông nghiệp và Môi trường sẽ phối hợp với các xã xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu số DVMTR. Hệ thống này giúp theo dõi trực tuyến tình trạng rừng, lưu vực, sản lượng điện thương phẩm của các nhà máy thủy điện, đảm bảo tính chính xác và công bằng trong việc xác định mức chi trả.
Cùng với đó là tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách đến người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, giúp họ hiểu rõ vai trò, quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia bảo vệ rừng; khuyến khích các doanh nghiệp chủ động hợp tác với chủ rừng, xây dựng mô hình “doanh nghiệp xanh”, vừa khai thác hiệu quả tài nguyên, vừa tái đầu tư cho bảo vệ môi trường.
Đồng chí Nguyễn Thế Phương, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tuyên Quang cho biết: Tỉnh xác định chính sách DVMTR không chỉ là công cụ tài chính mà còn là giải pháp chiến lược để bảo vệ rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững. Chúng tôi hướng tới mô hình quản lý rừng hiện đại, minh bạch, có sự tham gia của cộng đồng, tạo ra mối quan hệ hài hòa giữa con người với thiên nhiên, qua đó nâng cao đời sống cho hàng vạn người dân sống dựa vào rừng.
Bài, ảnh: Hoàng Ngọc













Ý kiến bạn đọc