Bài 1: Những kẻ mưu toan đánh cắp linh hồn dân tộc
Bài cuối: Chuyển động từ cuộc sống
Lòng yêu nước cội nguồn sức mạnh của văn hoá
Văn hóa, đối với một dân tộc, không chỉ là những phong tục, tập quán, lễ hội hay di sản vật thể. Nó là mạch nguồn nuôi dưỡng tâm hồn, sợi dây vô hình kết nối triệu triệu con người qua không gian và thời gian, tạo nên một bản sắc riêng biệt không thể trộn lẫn. Văn hóa chính là huyết mạch, nền tảng vững chắc đã giúp chúng ta vượt qua mọi thử thách nghiệt ngã.
Đối với người Việt, lòng yêu nước chính là cội nguồn sức mạch của văn hoá. Lòng yêu nước không phải là một khái niệm trừu tượng, mà nó thể hiện qua những câu chuyện lịch sử hào hùng, qua những bài ca dao, tục ngữ thấm đượm tình non sông đất nước. Từ thuở khai sinh lập quốc, lòng yêu nước đã được hun đúc, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động.
Dưới ách đô hộ phương Bắc, âm mưu đồng hóa văn hóa của kẻ thù chưa bao giờ thành công. Chính lòng yêu nước đã thôi thúc ông cha ta kiên cường gìn giữ tiếng nói, chữ viết, phong tục và tín ngưỡng của mình. Những bài hát ru con, những câu chuyện cổ tích, lễ hội truyền thống đã trở thành "lá chắn" vững chắc, bảo vệ hồn cốt dân tộc trước sự xâm lăng về văn hóa.
Nhiều lễ hội truyền thống của tỉnh Tuyên Quang được phục hồi, trong đó có lễ hội Lồng tông.
Trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi đã khẳng định: “Như nước Đại Việt ta từ trước/Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/Núi sông bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác/Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập/Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương/Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ Song hào kiệt đời nào cũng có”. Nguyễn Trãi đã cho thấy vai trò quan trọng của văn hiến đối với sự tồn vong mỗi dân tộc. Trong bất kì thời đại nào, bản sắc văn hóa dân tộc vẫn là những nét riêng không thể hòa lẫn dân tộc này với dân tộc khác.
Trước ba quân tướng sĩ, Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ tuyên thệ hùng hồn: “Đánh cho để dài tóc/Đánh cho để đen răng/Đánh cho nó chích luân bất phản/Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn/Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ!”. Lời hịch trên thể hiện quyết tâm đánh kẻ thù để giữ gìn bờ cõi đất nước, thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc.
Sau này, trải qua các cuộc chiến tranh chống lại thực dân, đế quốc, thống nhất đất nước, giành lại độc lập tự do cho dân tộc nhờ có lòng yêu nước, quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thiếu thốn để chiến thắng kẻ thù, làm nên những chiến công chói lọi trong lịch sử.
Tình đoàn kết sức mạnh phi thường từ văn hoá
Bên cạnh lòng yêu nước, tình đoàn kết là một truyền thống quý báu khác, được phát huy mạnh mẽ trong văn hóa Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh, mỗi khi đối mặt với hiểm nguy, tinh thần "lá lành đùm lá rách", "đồng cam cộng khổ" lại trỗi dậy mạnh mẽ, biến thành sức mạnh vô song. Từ những cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm cho đến những công cuộc xây dựng đất nước, sự đồng lòng, chung sức của toàn dân tộc luôn là yếu tố then chốt dẫn đến thắng lợi. Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, nhân dân ta đã đoàn kết. Trong đại dịch Covid-19 và cả khi khắc phục hậu quả của cơn bão Yagi đã chứng minh, tình đoàn kết là sức mạnh vô song của mọi người dân đất Việt qua các thời kỳ.
Ở Việt Nam, tiêu biểu là văn hóa làng xã, với những giá trị cộng đồng sâu sắc, đã tạo nên một nền tảng vững chắc cho tình đoàn kết. Trong chiến tranh, tình quân dân, tình hậu phương hết lòng vì tiền tuyến đã trở thành biểu tượng cao đẹp của tình đoàn kết dân tộc. Chính trong khói lửa chiến tranh, văn hóa yêu nước và tình đoàn kết lại càng được tôi luyện, trở nên sắt son và bền chặt hơn bao giờ hết. Bác Hồ từng khẳng định “Đoàn kết là sức mạnh vô địch của chúng ta” hay “Đoàn kết đại đoàn kết, thành công đại thành công”.
Bản sắc dân tộc Tày xứ Tuyên được lan toả, phục vụ phát triển du lịch cộng đồng.
Qua bao thăng trầm của lịch sử, văn hóa Việt Nam đã không ngừng được bồi đắp, phát triển, nhưng vẫn giữ vững những giá trị cốt lõi. Nó không chỉ là di sản của quá khứ, mà còn là sức sống của hiện tại và tương lai. Chính văn hóa đã giúp chúng ta định hình nên một dân tộc Việt Nam với những phẩm chất cao đẹp: kiên cường, bất khuất, nhân ái, thủy chung, cần cù và sáng tạo.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc càng trở nên cấp thiết. Nếu đánh mất văn hóa, đồng nghĩa với đánh mất chính mình, đánh mất nguồn cội và bản sắc riêng. Bởi lẽ, một dân tộc không có văn hóa cũng giống như một cái cây không có rễ. Giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc chính là cách thiết thực nhất để mỗi người Việt Nam thể hiện lòng yêu nước và trách nhiệm của mình đối với tiền nhân và thế hệ tương lai.
Thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng
Năm 1943, trong Đề cương văn hóa Việt Nam, Đảng ta xác định văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hóa. Khẳng định "Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi" đã trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động văn hóa, hướng tới một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII ra Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã được thực tiễn chứng minh là hoàn toàn đúng đắn và mang lại những thành tựu to lớn.
Ngày 9/6/2014 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, hướng đến Chân - Thiện -Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, tính nhân văn, dân chủ và khoa học… Nghị quyết xác định văn hóa được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
Tuyên Quang luôn chú trọng phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc.
Sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước cho phát triển văn hóa, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể và phi vật thể là minh chứng bác bỏ lại luận điệu xuyên tạc "Nhà nước ta "không coi trọng văn hóa". Tính đến năm 2025, Việt Nam có 32 di sản văn hóa được UNESCO ghi danh, bao gồm 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, 15 di sản văn hóa phi vật thể và 9 di sản tư liệu thế giới. Ngoài ra, có hơn 40.000 di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được kiểm kê, trong đó có 123 di tích quốc gia đặc biệt, 3.602 di tích quốc gia và hơn 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố. Bên cạnh đó, Việt Nam có 194 bảo tàng, trong đó 128 bảo tàng công lập và 66 bảo tàng ngoài công lập, đang lưu giữ hơn 3 triệu hiện vật.
Tính riêng tỉnh Tuyên Quang đã bảo tồn, tôn tạo tốt 660 di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh, trong đó có 271 di tích cấp tỉnh, 182 di tích quốc gia, 3 di tích quốc gia đặc biệt, 1 bảo vật quốc gia trên địa bàn. Đến nay, toàn tỉnh hiện có 54 lễ hội, trong đó đó có 48 lễ hội truyền thống, 6 lễ hội văn hóa. Hiện tại, trên địa bàn có 18 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được bảo tồn, phát huy.
Sự phát triển mạnh mẽ của các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, báo chí, xuất bản, thông tin truyền thông là minh chứng cho sự năng động, sáng tạo và sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt Nam. Điều này cho thấy nền văn hóa Việt Nam không hề suy yếu mà còn có khả năng thích ứng và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Đường lối của Đảng ta về phát triển văn hóa đã khẳng định, trọng tâm trong phát triển văn hóa chính là đầu tư cho phát triển con người, phát triển văn hóa, con người gắn liền đảm bảo sự tiến bộ xã hội.
Văn hóa là một trụ cột không thể thiếu cho sự phát triển bền vững của đất nước. Việc nhận thức và phát huy vai trò của văn hóa trong kỷ nguyên vươn mình sẽ giúp Việt Nam khơi dậy nguồn lực nội sinh, ngoại sinh, xây dựng một đất nước phồn vinh, hạnh phúc và có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Gửi phản hồi
In bài viết