Xuất khẩu chè tăng gần 8% về giá trị dù không tăng nhiều về khối lượng. Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Bộ NN&PTNT cho biết, trong tháng 4/2021, thời tiết khá thuận lợi cho sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản. Toàn ngành tích cực hướng dẫn các địa phương triển khai hiệu quả kế hoạch sản xuất, phòng chống dịch bệnh trên cây trồng vật nuôi, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong nước và mở cửa thị trường.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng NLTS 4 tháng đầu năm 2021 ước đạt 32,07 tỷ USD, trong đó XK đạt khoảng 17,15 tỷ USD, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Về nhập khẩu (NK) ước khoảng 14,93 tỷ USD, tăng 48,7%; xuất siêu khoảng 2,2 tỷ USD, giảm 41,1% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, XK nhóm nông sản chính ước đạt 5,9 tỷ USD, tăng 9,0%; lâm sản chính đạt 5,33 tỷ USD, tăng 50,9%; thủy sản ước đạt 2,39 tỷ USD, tăng 6,1%; chăn nuôi ước đạt 125 triệu USD, tăng 37,4%.
Trong 4 tháng đầu năm, nhiều sản phẩm, nhóm sản phẩm có giá trị XK tăng nổi bật gồm cao su tăng hơn 100%; sắn và sản phẩm từ sắn tăng gần 24%; sản phẩm chăn nuôi tăng hơn 37%; sản phẩm gỗ tăng hơn 71%; mây, tre, cói thảm tăng gần 66%... Trong đó, cao su, chè, sắn tăng cả khối lượng và giá trị xuất khẩu: Cao su (tăng 79,6% khối lượng, tăng 111,6% giá trị); chè (tăng 1,6% khối lượng và tăng 7,9% giá trị), sắn (tăng 65,3% khối lượng và tăng đến 90,9% giá trị).
Đặc biệt có 2 mặt hàng dù giảm khối lượng nhưng nhờ giá trị xuất khẩu bình quân tăng nên vẫn tăng giá trị gồm: Gạo (giảm 10,8% khối lượng nhưng tăng 1,2% giá trị); hạt tiêu (giảm 21,3% khối lượng nhưng tăng 10,3% giá trị).
Một số mặt hàng có giá trị XK giảm như: Cà phê giảm 17,6% khối lượng, giảm 11,6% giá trị, hạt điều tăng 8,6% khối lượng nhưng giảm 7,8% giá trị.
Về thị trường XK, theo ước tính giá trị XK nông, lâm, thủy sản 4 tháng đầu năm 2021 của Việt Nam tới các thị trường thuộc khu vực châu Á chiếm 46,9% thị phần, châu Mỹ chiếm 27,6%, châu Âu 10,0%, châu Đại Dương 1,4% và châu Phi 1,4%.
Gửi phản hồi
In bài viết