Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Hệ thống pháp luật hoàn thiện là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật hoàn thiện cũng là một trong những yếu tố thể hiện đặc trưng của Nhà nước pháp quyền. Đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn hiện nay, để quản lý xã hội, quản trị quốc gia tự tin bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, từ thực trạng hệ thống pháp luật hiện hành, việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ hết sức cấp thiết. Mục tiêu là xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các đại biểu thuộc đơn vị bầu cử số 1, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội tiếp xúc cử tri các quận Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng báo cáo kết quả Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XV và lắng nghe các ý kiến, kiến nghị của cử tri_Ảnh: TTXVN

Tiếp nối chủ trương đã được khẳng định trong các văn kiện của Đảng ta từ trước đó, Đại hội XIII của Đảng đánh dấu những bổ sung, phát triển quan trọng trong quan điểm về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ Khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” (Nghị quyết số 27-NQ/TW). Nghị quyết nêu 8 đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, nêu quan điểm và mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến năm 2030, khẳng định 3 trọng tâm, xác định 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 

Về mục tiêu tổng quát, Nghị quyết số 27-NQ/TW chỉ rõ: Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng XHCN vào năm 2045.

Có thể thấy, mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam là để góp phần thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững trong thời gian tới, trong kỷ nguyên mới, được Đảng ta xác định là kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. 

Mục tiêu này đã được nêu tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), về tổng quát, khi kết thúc thời kỳ quá độ, xây dựng được cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Trong 8 đặc trưng của xã hội XHCN mà Cương lĩnh nêu, có một đặc trưng là có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Từ đó, với những thành tựu đạt được trong chặng đường vừa qua, giai đoạn hiện nay Đảng ta xác định, “Đại hội XIV là đại hội đánh dấu thời điểm đất nước bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”(1). Như đồng chí GS, TS Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu, “Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại”(2). Do vậy, nhiệm kỳ Khóa XIV, trong các đột phá chiến lược được chú trọng, có đột phá chiến lược về thể chế, về hoàn thiện pháp luật; đồng thời, trong các phương hướng, giải pháp chiến lược, có giải pháp chiến lược về tinh gọn bộ máy tổ chức nhà nước. Cần đồng lòng, quyết liệt, tích cực, nỗ lực tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” khơi dậy khát vọng, khơi thông và thu hút được các nguồn lực cho sự phát triển của đất nước. Thông qua đó, thực hiện thành công mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tất yếu có Nhà nước pháp quyền XHCN với mức độ hoàn thiện cao trên cả 8 đặc trưng mà Nghị quyết số 27-NQ/TW đã chỉ ra.

Thực trạng hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

Hệ thống pháp luật hoàn thiện là một trong số các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trong nỗ lực chung để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ngày càng đạt nhiều thành tựu. Xét trên phương diện chung, hệ thống pháp luật đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu đã được nêu trong Nghị quyết số 27-NQ/TW như: dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận.

Cụ thể, Luật cơ bản - Hiến pháp năm 2013 đã được ban hành, bên cạnh những quy định có tính kế thừa, có nhiều quy định mới mang tính đột phá, cần thiết, là cơ sở để hoàn thiện thể chế tạo động lực phát triển đất nước nhanh, bền vững. Các văn bản luật, pháp lệnh được kịp thời ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, từng bước tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế(3). Giai đoạn 2005 - 2007, Quốc hội ban hành 63 luật, pháp lệnh; Khóa XII - nhiệm kỳ 2007 - 2011, Quốc hội ban hành 82 luật, pháp lệnh; Khóa XIII - nhiệm kỳ 2011 - 2016, tính hết kỳ họp thứ 10 vào tháng 11-2015, Quốc hội ban hành 110 luật, pháp lệnh(4); Khóa XIV, tính đến đầu Kỳ họp thứ 11, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 72 luật, 2 pháp lệnh; Khóa XV, tính đến tháng 6-2024, có 43 văn bản luật và 3 pháp lệnh đã được ban hành.

Từ đó, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, tổ chức thực hiện. Tính từ ngày 1-7-2016 đến ngày 31-12-2023, Chính phủ đã ban hành 983 nghị định, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 353 quyết định; bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã ban hành 6.184 thông tư; bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã ban hành 6.184 thông tư; các bộ, ngành ban hành 37 thông tư liên tịch(5). 

Cùng với việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, nguồn bổ trợ là án lệ cũng được chú ý phát triển để bảo đảm cơ sở pháp lý đầy đủ hơn cho hoạt động của các chủ thể pháp luật, bảo đảm các nguyên tắc pháp quyền. Tính đến tháng 5-2024, đã có 72 án lệ được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành quyết định công bố.

Hệ thống pháp luật được xây dựng, hoàn thiện theo quy trình thủ tục ngày càng phù hợp, hiện đại, bảo đảm thể chế hóa đúng đắn chủ trương, đường lối của Đảng. Nội dung pháp luật về cơ bản đảm bảo tính bao trùm, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước cũng như trong các lĩnh vực của đời sống xã hội(6). Những kết quả, xếp hạng qua một số chỉ số đánh giá có liên quan cũng cho thấy rõ điều này. Theo đánh giá của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) tại Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index) 2024, đối với nhóm chỉ số đầu vào, chỉ số về thể chế kể từ năm 2022 của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể so với các năm thuộc giai đoạn 2017 - 2021. Năm 2021, Việt Nam xếp hạng 83/132 quốc gia, nền kinh tế; thứ hạng này lần lượt ở các năm tiếp theo như sau: năm 2022, xếp hạng 51; năm 2023, xếp hạng 54; năm 2024, xếp hạng 58(7).

Bên cạnh những kết quả nêu trên, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể là:

- Về tính toàn diện: Xét một cách tổng thể, hệ thống pháp luật toàn diện đòi hỏi sự đầy đủ các quy định pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống cần có pháp luật điều chỉnh. Hiện nay, từ quy định của Hiến pháp năm 2013, một số quyền cơ bản đã hiến định vẫn chưa kịp thời ban hành được các văn bản luật nhằm cụ thể hóa. Một mặt, đối với các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của các chủ thể nhằm quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành văn bản luật, việc chậm, nợ văn bản vẫn chưa khắc phục được một cách triệt để. Một số quy định pháp luật bị lạc hậu so với yêu cầu thực tiễn vẫn chưa được kịp thời sửa đổi, bổ sung. Mặt khác, thực tiễn xã hội diễn ra hết sức sinh động, các quan hệ xã hội biến đổi nhanh chóng, nhu cầu về pháp luật đối với một số lĩnh vực mới là cấp thiết, song vẫn chưa có hệ thống thể chế đầy đủ (đơn cử như hệ thống thể chế cho mô hình khu thương mại tự do FTZ). Bên cạnh đó, vẫn có sự chênh lệch trong các lĩnh vực khác nhau khi xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Ví dụ như trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người, số lượng văn bản luật ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung khá nhiều, song so với nhu cầu thực tiễn vẫn chưa đủ. Điều này dẫn đến việc có nhiều khuyến nghị dành cho Việt Nam khi thực hiện Báo cáo kiểm điểm định kỳ phổ quát trước Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc, trong đó, có nhiều khuyến nghị hướng đến việc tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật(8).

- Về tính đồng bộ: Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật thể hiện ở sự thống nhất, không mâu thuẫn chồng chéo, văn bản có giá trị pháp lý thấp không trái văn bản có giá trị pháp lý cao hơn và tất cả các văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với Hiến pháp. Đối với vấn đề này, vẫn còn các quy phạm pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo làm cho việc thực hiện không dễ dàng. Kể từ khi có Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật và Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012, công tác pháp điển hóa, hợp nhất văn bản được triển khai có kết quả đã góp phần khắc phục được hạn chế, tăng cường tính thống nhất, đồng bộ cho hệ thống pháp luật; song, so với nhu cầu thực tiễn, vẫn cần nhiều nỗ lực hơn nữa. 

- Về tính phù hợp, hiệu lực, thực tiễn, khả thi: Đối với yêu cầu này, các quy định pháp luật cần có sự phù hợp với trình độ, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, đặc điểm văn hóa; bảo đảm sự thuận lợi, đạt mục tiêu trong thực thi; có nguồn lực bảo đảm hiệu lực; khi thực thi, phải tạo được động lực phát triển nhanh, bền vững. Hệ thống pháp luật hiện nay còn có các quy định, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước và chưa bắt kịp thời cơ, vượt qua thách thức của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Với những biến chuyển nhanh chóng của các quan hệ xã hội hiện nay, xuất hiện nhiều phương thức, mô hình sản xuất, kinh doanh, thanh toán mới trong lĩnh vực kinh tế, như kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử, tiền điện tử… đòi hỏi pháp luật phải hoàn thiện hơn nữa để có quản lý hiện đại hơn, phù hợp hơn, khơi dậy khát vọng, khơi thông nguồn lực, bảo đảm an toàn cho các bên tham gia quan hệ pháp luật. Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan những lĩnh vực này có độ ổn định chưa cao, có những văn bản nhanh chóng bị sửa đổi, bổ sung hoặc phải xem xét thời gian hiệu lực. Còn có những văn bản chưa kịp thời phát huy được hiệu lực do các điều kiện bảo đảm hiệu lực, các nguồn lực nhằm tổ chức thực hiện chưa được đầy đủ. Một số quy định chưa thể hiện được vai trò kiến tạo phát triển, chưa thực sự khơi thông được nguồn lực, còn cản trở việc thực thi(9).

- Về tính công khai, minh bạch: Đây là yêu cầu nhằm bảo đảm khả năng tiếp cận nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ của các chủ thể pháp luật đối với các văn bản quy phạm pháp luật, từ khi đang ở dạng dự thảo, lấy ý kiến góp ý, cho đến khi văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, thực hiện truyền thông chính sách. Hiện nay, việc thu hút người dân, đối tượng chính sách, các nhà khoa học… tham gia ý kiến đối với các dự thảo văn bản thông qua đăng tải trên các cổng thông tin điện tử của cơ quan soạn thảo và Chính phủ, thông qua hội nghị, hội thảo, tọa đàm... đã được các cơ quan chú trọng thực hiện nhưng khả năng thu hút chưa như mong đợi. Việc xử lý thông tin góp ý và giải trình tiếp thu ý kiến đóng góp chưa dựa được trên lợi thế công nghệ thông minh và có những văn bản chưa thực hiện đầy đủ. Khi các văn bản đã được ban hành, vẫn chưa khắc phục hoàn toàn được thực trạng có những quy định được hiểu thiếu thống nhất, được áp dụng khác nhau. 

- Về tính đảng, mặc dù một vấn đề mang tính nguyên tắc đã được khẳng định, là chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng phải được thể chế hóa thành pháp luật; song, thời gian qua, một số chủ trương, chính sách, thậm chí là chủ trương lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng kết quả không khả thi(10).

Như vậy, thể chế vẫn là vấn đề mà Đảng ta xác định là một trong ba “điểm nghẽn” lớn nhất hiện nay (gồm thể chế, hạ tầng và nhân lực); trong đó, thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”. Theo đánh giá của (WIPO) tại Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index) năm 2023 và năm 2024, chỉ số Chất lượng các quy định pháp luật chưa phản ánh rõ xu hướng cải thiện, năm 2021 Việt Nam xếp hạng 93/132 quốc gia, nền kinh tế, năm 2022 xếp hạng 83/132, năm 2023 giảm xuống vị trí 94/132, năm 2024 xếp hạng 95/133 quốc gia, nền kinh tế. Việt Nam cần nhiều nỗ lực hơn nữa để cải thiện thể chế, pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho phát triển kinh tế - xã hội dựa trên khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. 

Có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến những bất cập, hạn chế của hệ thống pháp luật. Trong đó, có thể kể đến một số nguyên nhân như: 1- Về phương diện lý luận, chưa nhận thức thống nhất, đầy đủ về yêu cầu, tiêu chuẩn của pháp luật Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam để hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá pháp luật và dựa vào đó xây dựng pháp luật đạt tiêu chuẩn. Trong tư duy xây dựng pháp luật vẫn còn có hiện tượng đặt vị thế của cơ quan công quyền, người quản lý cao hơn trong mối tương quan với đối tượng quản lý; tư duy kiến tạo phát triển chưa thực sự rõ nét. 2- Về phương diện thực tiễn, quy trình lập pháp, lập quy vẫn còn một số bất cập, rườm rà, khó xác định trách nhiệm trong trường hợp chất lượng dự thảo không cao. Chất lượng cán bộ, công chức tham gia xây dựng pháp luật chưa đồng đều, một số còn hạn chế. Mặc dù đã xác định đầu tư cho thể chế là đầu tư cho phát triển, nhưng sự đầu tư cho hoạt động xây dựng pháp luật về cơ bản chưa tương xứng với vai trò đột phá chiến lược của thể chế. Có những trường hợp chưa gắn kết chặt chẽ việc thể chế hóa chủ trương của Đảng vào hoạch định chính sách với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn. Hơn nữa, bối cảnh xã hội trong nước và quốc tế có những diễn biến hết sức phức tạp, nhanh chóng, nhiều trường hợp nằm ngoài khả năng dự báo. Đây cũng là thách thức cho hoạt động xây dựng pháp luật. Ngoài ra, dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, trước yêu cầu của chuyển đổi số và nhu cầu mong đợi của người dân ngày càng cao, nhiều quy định pháp luật nhanh chóng bị lạc hậu, xuất hiện nhiều khoảng trống pháp lý, một số quy định pháp luật vì vậy đã cản trở hoặc kìm hãm sự phát triển xã hội.

Các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua luật, nghị quyết tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV_Ảnh: TTXVN

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Hướng đến thực hiện thành công mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, hệ thống pháp luật cần tiếp tục được hoàn thiện hơn nữa với nhiều giải pháp mạnh mẽ, phù hợp; cụ thể là cần thực hiện tốt những giải pháp sau:

Một là, tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý.

Tư duy của con người - đặc biệt là lý luận khoa học - có sức mạnh to lớn trong thay đổi hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn. Về vai trò của tư duy, lý luận khoa học, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin từng khẳng định: “… lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó xâm nhập vào quần chúng”(11) và “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan”(12). Nhận thức đúng đắn và tình cảm tích cực, từ đó hành động phù hợp với quy luật khách quan sẽ thúc đẩy điều kiện vật chất phát triển. Hiện nay, các quan hệ xã hội phát triển, biến động nhanh, đa đạng, đa chiều, phức tạp, nguồn thông tin phong phú, trình độ dân trí ngày càng cao, dân chủ ngày càng được phát huy, đòi hỏi chất lượng xây dựng thể chế, pháp luật phải được nâng cao với tư duy mới. Do vậy, để hoàn thiện pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý theo tinh thần “tư duy sớm”, “tầm nhìn xa”, “4 kiên định, 5 tăng cường”. Trong đó:

+ “4 kiên định” đã được Đảng ta chỉ ra, gồm: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, để Đảng thực hiện tốt vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, trong đó có công tác lãnh đạo Nhà nước tổ chức xây dựng, hoàn thiện pháp luật(13).

+ “5 tăng cường” gồm: tăng cường tư duy kiến tạo phát triển; tăng cường tư duy phát triển nhanh và bền vững; tăng cường tư duy hoàn thiện pháp luật phù hợp đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa; tăng cường tư duy “mở” trong tiếp nhận sáng kiến chính sách, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập; tăng cường tư duy bình đẳng, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.

Như vậy, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật là nhằm tạo lập hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo, khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. 

Hai là, giải pháp về hoạch định chính sách. 

Thứ nhất, nâng cao chất lượng hoạch định chính sách để góp phần nâng cao chất lượng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Chính sách công có các dạng biểu hiện cụ thể, trong đó phổ biến là thể hiện qua các văn bản quy phạm pháp luật. Hoạch định chính sách có chất lượng là yếu tố quyết định đến chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ hai, đổi mới các khâu trong quy trình hoạch định chính sách phù hợp với yêu cầu quản trị quốc gia theo hướng hiện đại. Các chính sách nếu hoạch định theo quy trình phổ biến trong mô hình quản lý truyền thống, tức là về cơ bản khép kín, thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cũng như tính đại diện, tính bao trùm, tính trách nhiệm, tính đáp ứng của chính sách. Về phương diện lý thuyết, quản trị quốc gia hiện đại có một số khác biệt so với quản lý truyền thống, trong đó có sự khác biệt trong quy trình hoạch định chính sách công. Về phương diện thực tiễn, quản trị quốc gia theo hướng hiện đại thể hiện ở tính “mở” của quy trình hoạch định chính sách. Theo đó, việc hoạch định chính sách không chỉ bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của xã hội và người dân, mà còn coi trọng phát huy vai trò và sự tham gia của xã hội và công dân, trong đó có việc phát huy vai trò tư vấn, phản biện chính sách của các tổ chức tư vấn (think tank). Trong quy trình hoạch định chính sách, Nhà nước tiếp nhận, thu thập một cách rộng rãi các thông tin, tri thức của cá nhân, tập thể và các tổ chức tư vấn, tăng cường tính bao trùm của chính sách, tránh sai lầm về các quyết định, góp phần nâng cao chất lượng chính sách. 

Thứ ba, tăng cường truyền thông chính sách ngay từ khi xuất hiện các sáng kiến chính sách, truyền thông trong quá trình hoạch định và khi một chính sách đã được ban hành để góp phần làm cho các đối tượng chính sách hiểu, tham gia thực hiện chính sách thống nhất; đồng thời, có đủ thông tin góp phần không ngừng hoàn thiện chính sách.

Thứ tư, thực hiện tốt việc đánh giá tác động chính sách, tạo cơ sở khoa học, thuyết phục, nâng cao chất lượng sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật.

Thứ năm, có biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa, kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm, các xu hướng cực đoan trong hoạch định chính sách, như: lồng ghép lợi ích cục bộ, tham nhũng chính sách trong xây dựng pháp luật; xa rời chủ trương, đường lối của Đảng; các chính sách cản trở sự phát triển; các chính sách làm phức tạp về thủ tục, tăng chi phí tuân thủ; các mục tiêu của chính sách mâu thuẫn; các chính sách có mục tiêu quá tham vọng; các chính sách phiến diện, không bảo đảm tính bao trùm, không được sự đồng thuận của đối tượng chính sách; xử lý nghiêm mọi hành vi tham nhũng, tiêu cực, “cài cắm” lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ trong dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội theo Quy định số 178-QĐ/TW, ngày 27-6-2024, của Bộ Chính trị, “Về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật”.

Ba là, giải pháp về ban hành văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật cả về nội dung, hình thức, kỹ thuật.

Thứ nhất, có giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Kịp thời thể chế hóa toàn diện, đầy đủ các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng vào chính sách, pháp luật. Có cơ chế phối hợp triển khai và có cơ chế kiểm tra, giám sát, phát hiện các thiếu sót, chậm trễ, sai khác (nếu có) trong quá trình xây dựng, hoàn thiện các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tiếp tục hoàn thiện các chế tài phù hợp, bảo đảm cơ chế áp dụng trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý để xử lý các vi phạm.

Thứ hai, bảo đảm hoàn thiện hệ thống pháp luật toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, có ưu tiên trọng tâm, trọng điểm trong điều kiện còn nhiều văn bản cần ban hành, sửa đổi, bổ sung, theo tinh thần phản ứng nhanh trước thực tiễn, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo động lực mạnh cho phát triển nhanh và bền vững đất nước, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của xã hội. Trong từng giai đoạn phát triển, cần bám sát thực tiễn, nắm bắt nhu cầu; từ đó, có chương trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật phù hợp và kịp thời điều chỉnh khi cần thiết.

Trong giai đoạn hiện nay, cần xác định đúng, trúng các trọng tâm, trọng điểm để xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Dựa trên những nhận diện về 3 điểm nghẽn, 7 định hướng chiến lược(14), trong thời gian tới, cần chú ý các trọng tâm, trọng điểm sau đây để xây dựng, hoàn thiện pháp luật: 

+ Pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước theo tinh thần của đổi mới hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, bảo đảm cơ sở pháp lý cho “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” và “Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát”(15).

+ Pháp luật về quyền con người trong bối cảnh hội nhập; pháp luật về phát huy nguồn lực con người, khơi dậy khát vọng; pháp luật nhằm tháo gỡ điểm nghẽn về nhân lực, trong đó có công tác cán bộ của hệ thống chính trị.

+ Pháp luật về kinh tế theo tinh thần kiến tạo phát triển nhằm khơi thông nguồn lực, phát triển bền vững; tháo gỡ điểm nghẽn hạ tầng; pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, bảo đảm an toàn trong xã hội số.

Thứ ba, cần tiếp tục đổi mới quy trình, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng hiện đại hơn nữa, dựa trên lợi thế của công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình, tăng cường đổi mới sáng tạo.

Thứ tư, nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật ở cấp độ trung ương và địa phương trên cơ sở tham khảo cách đánh giá về thể chế trong các bộ chỉ số như: Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) và cấp tỉnh (PII), Chỉ số cải cách hành chính (PAR Index), Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI)…; đồng thời, bảo đảm tinh thần của Nghị quyết số 27-NQ/TW với các yêu cầu của hệ thống pháp luật như: dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. 

Thứ năm, đồng lòng, nhất quán, kiên trì, quyết liệt tháo gỡ các vướng mắc khó khăn về pháp lý hiện đã nhận diện được, gồm cả những khó khăn vướng mắc trong văn bản quy phạm pháp luật và khó khăn vướng mắc trong tổ chức thực hiện pháp luật.

Hướng tới 100 năm thành lập Đảng, 100 năm thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), để đất nước tự tin, vững vàng bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần nhiều nỗ lực hơn nữa, tranh thủ, khơi thông các nguồn lực, không bỏ lỡ cơ hội, nhận diện và vượt qua thách thức. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN chính là một trong những nhiệm vụ, giải pháp hết sức quan trọng, cấp thiết./.

PGS, TS Phạm Minh Tuấn

Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

----------------------

(1) Phát biểu đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Tạp chí Cộng sản, số 1.046 (9-2024), tr. 9
(2) GS, TS Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: “Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản điện tử, https://www.tapchicongsan.org.vn/ 06:00, ngày 01-11-2024
(3) Xem: GS, TS Tạ Ngọc Tấn (Chủ biên): Cương lĩnh 2011: Những vấn đề lý luận và thực tiễn qua 10 năm thực hiện, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 267
(4) Xem: Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW, Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, tr. 28
(5) Xem: Bộ Tư pháp, Báo cáo số 270/BC-BTP ngày 03-7-2024 Tổng kết Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020, tr. 10, 11
(6) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 71 - 72
(7) Xem: “Việt Nam tiếp tục thăng hạng chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu”, https://baochinhphu.vn. 26-09-2024  
(8) Với Báo cáo kiểm điểm định kỳ phổ quát chu kỳ IV (UPR IV), Việt Nam nhận được 320 khuyến nghị các nước đưa ra và đã chấp thuận 271 khuyến nghị. 
(9) Xem: TS. Nguyễn Hải Ninh - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp: “Đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng và thi hành pháp luật để đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, https://dangcongsan.vn.
(10) Xem: GS, TS Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: “Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tlđd 
(11) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 1, tr. 580
(12) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 29, tr. 228
(13) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 109
(14) Xem: GS, TS Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: “Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tlđd  
(15) Phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khai mạc Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Tạp chí Cộng sản, số 1.046 (9-2024), tr. 11 

Theo Tạp chí Cộng sản điện tử

Tin cùng dòng sự kiện