Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với các đại biểu dự Hội nghị biểu dương chủ tịch Mặt trận Tổ quốc cấp xã và trưởng ban công tác Mặt trận tiêu biểu toàn quốc _Ảnh: TTXVN
Quyền lực chính trị và kiểm soát quyền lực chính trị trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, quyền lực là khả năng của cá nhân hay tổ chức có thể buộc các cá nhân hay tổ chức khác phải phục tùng ý chí của mình. Trong đời sống chính trị nói chung, quyền lực luôn có xu hướng vận động theo hướng mở rộng, tăng cường vai trò của các chủ thể được trao quyền; vì thế, thực tiễn đó luôn đặt ra yêu cầu phải kiểm soát quyền lực để ngăn ngừa sự lạm quyền, tha hóa quyền lực. Thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”(1), nhân dân là người làm chủ và là chủ thể của quyền lực nhà nước. Vì vậy, quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước trong thể chế chính trị nước ta hiện nay về bản chất là thuộc về nhân dân, do nhân dân nắm giữ, nhưng được nhân dân ủy quyền cho Đảng, Nhà nước để lãnh đạo và tổ chức, quản lý đời sống xã hội theo trật tự phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân.
Cùng với việc bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay cũng phải đối mặt với nguy cơ lạm quyền, tha hóa quyền lực từ phía các tổ chức, cá nhân được trao quyền trong các cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước. Để quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước được thực hiện đúng, có hiệu quả, không bị lạm dụng, lợi dụng vào các mục đích không hợp pháp, không chính đáng, thì cần phải có sự kiểm soát chặt chẽ. Kiểm soát quyền lực chính trị là một trong những phương thức quan trọng nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giữ vững bản chất của chế độ chính trị ở nước ta - vì nhân dân phục vụ.
Hiện nay, các khái niệm về quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước chưa được quy định cụ thể trong các văn kiện của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật. Điều 2, Hiến pháp năm 2013 chỉ quy định mang tính nguyên tắc trong kiểm soát quyền lực nhà nước: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Kiểm soát quyền lực chính trị được hiểu là toàn bộ hoạt động xem xét, theo dõi, đánh giá của các chủ thể kiểm soát, để từ đó có biện pháp ngăn chặn, loại bỏ những nguy cơ, hành vi, việc làm trái quy định của các tổ chức, cá nhân trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước các cấp trong quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực; bảo đảm cho quyền lực được sử dụng và thực hiện trong giới hạn, tuân thủ đúng chủ trương, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Điều này càng trở nên quan trọng và cấp thiết đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một nhà nước thừa nhận vị trí tối cao của Hiến pháp và sự thượng tôn pháp luật, thực hiện sự quản lý bằng pháp luật và theo pháp luật. Vì vậy, kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một yêu cầu tất yếu, khách quan. Nếu không có kiểm soát quyền lực hoặc kiểm soát quyền lực không đủ mạnh thì sẽ là cơ hội cho sự lạm quyền, từ đó dẫn đến sai lầm về chủ trương, chính sách, quy định; làm nảy sinh tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực; làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Do vậy, kiểm soát quyền lực chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm xây dựng Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; bảo đảm sự bền vững của chế độ và thắng lợi của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ với các đại biểu dự Hội nghị tổng kết công tác phối hợp giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam _Ảnh: TTXVN
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là chủ thể tham gia kiểm soát quyền lực chính trị trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Căn cứ vào các quy định hiện hành, việc kiểm soát quyền lực trong Đảng, trong bộ máy nhà nước về cơ bản sẽ được thực hiện bởi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát... Như vậy, chủ thể kiểm soát quyền lực chính trị ở nước ta hiện nay chủ yếu là các cơ quan, tổ chức của Đảng, các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, được thực hiện bởi các thiết chế; bên cạnh đó, cũng được thực hiện bởi những tổ chức và thiết chế bên ngoài Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) là thành viên của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Chức năng giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước của MTTQVN, qua đó mà tham gia kiểm soát quyền lực chính trị, đã được khẳng định trong văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng gần đây, được Hiến pháp, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định cụ thể.
Để xác lập cơ sở chính trị và cơ chế cụ thể cho hoạt động giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN, ngày 12-12-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 217-QĐ/TW, “Về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”, trong đó chỉ rõ: “Giám sát và phản biện xã hội” là giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng với quan điểm tăng cường vai trò nòng cốt chính trị của MTTQVN đã nhấn mạnh trách nhiệm của Mặt trận là: “Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước”(2). Mặt khác, để đề cao vai trò của MTTQVN và nhân dân tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật, Kết luận số 19-KL/TW, ngày 14-10-2021, của Bộ Chính trị, “Về định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV”, đã đề ra nhiệm vụ “Phát huy vai trò của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc nâng cao chất lượng công tác phản biện xã hội đối với quy trình lập pháp và giám sát việc thực hiện pháp luật; chú trọng bản lĩnh, ý thức chính trị, không bị chi phối, tác động bởi các hành vi không lành mạnh của bất cứ tổ chức, cá nhân nào trong quá trình giám sát, phản biện xã hội”(3). Quan điểm nhất quán của Đảng về chức năng giám sát, phản biện xã hội của MTTQVN cho thấy, Đảng ngày càng xác định rõ và khẳng định vai trò quan trọng của MTTQVN, các tổ chức thành viên của MTTQVN và nhân dân, là chủ thể bên ngoài Nhà nước, thực hiện kiểm soát quyền lực chính trị trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thực tiễn hoạt động giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN cho thấy, phản biện xã hội là phương thức kiểm soát trước khi ban hành chủ trương, chính sách, pháp luật, kiểm soát ở đây mang tính phòng ngừa; còn giám sát là phương thức kiểm soát sau đó để đánh giá xem chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã đi vào cuộc sống như thế nào, có phù hợp và đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân hay không.
Về nội dung giám sát, MTTQVN tập trung giám sát việc thực hiện những chủ trương, chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, quyền và trách nhiệm của MTTQVN. Giám sát của MTTQVN được thực hiện thông qua các hình thức sau: 1- Nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; 2- Tổ chức đoàn giám sát; 3- Thông qua hoạt động của ban thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã, ban giám sát đầu tư của cộng đồng; 4- Tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Ngoài các hình thức trên, MTTQVN cũng có thể tiến hành giám sát căn cứ vào đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của các tổ chức, cá nhân và qua phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng.
Về nội dung phản biện xã hội, MTTQVN phản biện sự cần thiết của văn bản dự thảo; sự phù hợp của văn bản dự thảo với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tính đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính khả thi của văn bản dự thảo; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhân dân, tổ chức. Phản biện xã hội của MTTQVN được thực hiện bằng việc tổ chức hội nghị phản biện hoặc gửi dự thảo văn bản đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để lấy ý kiến phản biện xã hội hoặc tổ chức đối thoại trực tiếp giữa MTTQVN với cơ quan, tổ chức có dự thảo văn bản được phản biện xã hội.
Về hậu quả pháp lý, MTTQVN tham gia kiểm soát quyền lực chính trị trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng phương thức giám sát để bảo đảm việc các chủ thể được trao quyền thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kịp thời phát hiện những sai sót, yếu kém và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm xem xét, giải quyết kiến nghị sau giám sát của MTTQVN theo quy định của pháp luật. Thông qua phản biện xã hội, MTTQVN tham gia kiểm soát quyền lực chính trị nhằm phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ quan của Đảng, Nhà nước; kiến nghị những nội dung thiết thực, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả trong việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo dự thảo văn bản được phản biện phải trả lời bằng văn bản đối với kiến nghị của MTTQVN, trường hợp không tiếp thu kiến nghị thì phải giải trình, báo cáo ý kiến phản biện xã hội của MTTQVN với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành văn bản.
Đoàn công tác của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đến kiểm tra, khảo sát công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh Đồng Tháp, giai đoạn 2013 - 2021 _Ảnh: TTXVN
Thực trạng tham gia kiểm soát quyền lực chính trị trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Triển khai thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW của Bộ Chính trị và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, thời gian qua, giám sát đã trở thành hoạt động thường xuyên, trọng tâm của MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp. Ủy ban Trung ương MTTQVN đã chủ trì phối hợp với các tổ chức thành viên của MTTQVN, các bộ, ngành liên quan để xây dựng, ký kết, thực hiện 14 chương trình phối hợp giám sát chuyên đề. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức nhiều đoàn giám sát liên ngành với sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, bộ, ngành và các tổ chức thành viên của MTTQVN để giám sát các vấn đề đang được dư luận quan tâm hoặc có ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân. Việc thực hiện các chương trình phối hợp giám sát của MTTQVN trong thời gian qua đã nhận được sự đồng tình, hỗ trợ tích cực và hiệu quả của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan nhà nước có liên quan và chính quyền các cấp ở các địa phương. Trung bình hằng năm, hệ thống MTTQVN các cấp chủ trì cũng như phối hợp tham gia hàng vạn cuộc giám sát trên các lĩnh vực. Đặc biệt, ủy ban MTTQVN các cấp đã tập trung giám sát có hiệu quả nhiều nội dung được cán bộ, đảng viên, nhân dân và dư luận quan tâm, liên quan đến trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền, như giám sát việc công khai kết luận thanh tra; giám sát công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026; giám sát việc thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ; giám sát việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với chủ tịch ủy ban nhân dân (UBND) các cấp; giám sát việc thực hiện Luật Đất đai năm 2013; giám sát việc thực hiện chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP, ngày 1-7-2021, của Chính phủ, “Về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19”... Sau giám sát, MTTQVN các cấp đã kịp thời kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền đề nghị khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực hiện quyền và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức; đồng thời, yêu cầu rà soát, điều chỉnh, bổ sung chính sách, pháp luật cho phù hợp, đáp ứng với tình hình thực tế và nhu cầu, nguyện vọng của người dân, góp phần giữ ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, cơ sở.
Chú trọng hoạt động giám sát thường xuyên, MTTQVN các cấp đã tổ chức giám sát việc thực thi pháp luật của các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp thông qua theo dõi việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh của công dân, cơ quan báo chí; phối hợp thực hiện các hoạt động giám sát trong lĩnh vực tư pháp theo quy chế phối hợp với các cơ quan hữu quan, trong đó tập trung phối hợp kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự, hình sự tại các địa phương; tham gia thực hiện công tác đặc xá; tham gia tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên, giới thiệu hội thẩm nhân dân, tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí... Thực hiện quyền giám sát đối với các cơ quan, tổ chức đảng và đảng viên, ủy ban MTTQVN các cấp đã xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 2-2-2018, của Ban Bí thư, “Về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”. Thực hiện chủ trương “Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và giám sát của nhân dân”(4), hằng năm MTTQVN đã tích cực phối hợp, tham gia các đoàn giám sát theo chuyên đề của Quốc hội, HĐND các cấp về những vấn đề liên quan đến “quốc kế, dân sinh”, có ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến đời sống của nhân dân cả nước cũng như của người dân ở các địa phương.
Thực hiện chức năng phản biện xã hội và tham gia xây dựng pháp luật, trong những năm qua, Ủy ban Trung ương MTTQVN đã chủ trì phản biện xã hội, góp ý đối với nhiều dự thảo văn bản pháp luật quan trọng, có tác động lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân và đến các lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội, như phản biện dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015; dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi); dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi); dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015; dự thảo Quy định tiêu chí, trình tự, thủ tục xét công nhận đạt chuẩn đô thị văn minh... Các kiến nghị phản biện xã hội của MTTQVN có tính khoa học, phù hợp thực tiễn, được dư luận đánh giá cao. Nhiều nội dung phản biện xã hội của MTTQVN đã được cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu để đưa vào dự thảo luật, có ý kiến phản hồi tích cực. Ở địa phương, ủy ban MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội đã tích cực tham gia góp ý, phản biện xã hội đối với các dự thảo chủ trương, chính sách, kế hoạch, đề án, dự án và các văn bản quy phạm pháp luật do HĐND, UBND cùng cấp ban hành có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; qua đó, tăng cường phát huy vai trò của MTTQVN trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 đã chính thức ghi nhận quyền và trách nhiệm phản biện xã hội của MTTQVN đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong quá trình xây dựng pháp luật của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo; qua đó, khẳng định vai trò quan trọng của MTTQVN trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, kiểm soát quyền lập pháp nói riêng, quyền lực nhà nước nói chung trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cùng với giám sát, phản biện xã hội, MTTQVN các cấp đã thường xuyên lắng nghe, tập hợp, tổng hợp các ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước; thường xuyên, định kỳ, đột xuất góp ý với Đảng, Nhà nước thông qua các báo cáo về tình hình và ý kiến của nhân dân gửi Chính phủ, Quốc hội, Chủ tịch nước và Ban Bí thư Trung ương Đảng, báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân để trình bày trước Quốc hội tại mỗi kỳ họp. Qua kiến nghị của MTTQVN, nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội, nhiều bất cập trong thực thi chính sách đã được phát hiện, giúp cho các cơ quan của Đảng, Nhà nước tháo gỡ kịp thời các vướng mắc, kịp thời điều chỉnh, bổ sung chủ trương, chính sách, quy định pháp luật có liên quan, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân, chủ thể có liên quan. Thực hiện Quy định của Đảng về việc MTTQVN, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền (ban hành theo Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị), ở nhiều địa phương, MTTQVN các cấp đã thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm đề xuất với cấp ủy, phối hợp với chính quyền tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với nhân dân, qua đó giúp cho cấp ủy, chính quyền nâng cao trách nhiệm giải trình, điều chỉnh phương thức lãnh đạo, quản lý, kịp thời tháo gỡ khó khăn, giải tỏa bức xúc, tạo sự đồng thuận xã hội, làm cơ sở, động lực phát triển kinh tế, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngay từ cơ sở.
Với những nội dung, phương thức hoạt động cụ thể, thiết thực nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được Hiến pháp và pháp luật quy định, MTTQVN ngày càng khẳng định được vai trò là một lực lượng tham gia kiểm soát quyền lực chính trị một cách hiệu quả bên ngoài Nhà nước, thể hiện ý chí của nhân dân trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Điều này càng có ý nghĩa trong điều kiện một đảng lãnh đạo, cầm quyền cũng như trong quá trình xây dựng và hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về phương diện pháp lý, hoạt động kiểm soát của MTTQVN không mang tính chế tài, nhưng có sức lan tỏa, ảnh hưởng rộng rãi, khiến cho các chủ thể được trao quyền nếu có hành vi lạm quyền hoặc hành vi không phù hợp với lợi ích chung của xã hội thì sẽ buộc phải có sự điều chỉnh theo hướng nâng cao tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân; bảo đảm tính đúng đắn, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật trong thực thi nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam làm tốt vai trò tham gia kiểm soát quyền lực chính trị trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là yếu tố quan trọng để củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tăng cường đồng thuận xã hội; góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong điều kiện mới.
Tiếp tục phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia kiểm soát quyền lực chính trị trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Một số giải pháp chủ yếu
Bước vào giai đoạn mới, để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, hướng đến mục tiêu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phát huy quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát huy hơn nữa vai trò của MTTQVN tham gia kiểm soát quyền lực chính trị, MTTQVN các cấp cần tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao thực chất hiệu quả hoạt động giám sát và phản biện xã hội, đồng thời tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng, củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ mặt trận chuyên trách và không chuyên trách từ Trung ương đến cơ sở.
Thứ hai, tăng cường giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trọng tâm là giám sát hoạt động quản lý nhà nước về những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân; tích cực tham gia xây dựng, phản biện dự thảo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, quyền và trách nhiệm của MTTQVN. Thực hiện đầy đủ trách nhiệm giám sát của MTTQVN theo quy định tại các văn bản, nghị quyết của Đảng.
Thứ ba, phát huy vai trò của MTTQVN và sức mạnh của nhân dân trong tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Thứ tư, tiếp tục nâng cao chất lượng báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước. Duy trì, nâng cao chất lượng phối hợp tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương với nhân dân.
Thứ năm, tổ chức nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, đề xuất đổi mới mô hình tổ chức bộ máy của MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, thực hiện tốt vai trò làm cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân dân.
Thứ sáu, Đảng, Nhà nước tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm phát huy hơn nữa vai trò của MTTQVN, các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân trong quá trình hoạch định chủ trương, đường lối, chiến lược, chính sách phát triển đất nước. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho hoạt động giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội; hoàn thiện các quy định pháp luật về bầu cử và về vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của MTTQVN tham gia công tác bầu cử; góp phần hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới./.
TS LÊ TIẾN CHÂU
Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hải Phòng, nguyên Phó Chủ tịch - Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
-------------------------------------
(1) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, Điều 2, tr. 9
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 172
(3) Kết luận số 19-KL/TW, ngày 14-10-2021, của Bộ Chính trị, “Về định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV”
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 177 - 178
Gửi phản hồi
In bài viết