(Ảnh: minh họa)
Mới đây, VCCI đã có văn bản gửi Bộ Công thương đóng góp ý kiến đối với dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo.
Còn nhiều điều kiện kinh doanh làm khó doanh nghiệp
VCCI cho biết, nhiều doanh nghiệp phản ánh chi phí và thời gian đi lại để nộp hồ sơ và nhận Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh hiện còn khá lớn, nhất là khi các doanh nghiệp xuất khẩu gạo chủ yếu nằm ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Trong khi đó, việc kiểm tra đủ điều kiện về kho và máy xay xát vẫn do các Sở Công thương thực hiện. Vì vậy, để cải cách thủ tục hành chính, tăng cường phân cấp, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo điều chỉnh quy định theo hướng giao thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Sở Công thương.
Khi đó, Sở Công thương các địa phương sẽ chịu trách nhiệm báo cáo về việc cấp phép cho Bộ Công thương và doanh nghiệp vẫn phải báo cáo hoạt động đối với Bộ Công thương định kỳ.
Ngoài ra, Điều 6.5 của Nghị định 107 quy định thời hạn của Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo là 5 năm và sau mỗi 5 năm, doanh nghiệp phải xin cấp giấy chứng nhận mới với thủ tục chứng minh đủ điều kiện kinh doanh tương tự như lần đầu.
Song, theo phản ánh của các doanh nghiệp, Sở Công thương các địa phương vẫn thường xuyên kiểm tra định kỳ doanh nghiệp về việc đáp ứng điều kiện kinh doanh (kho và cơ sở xay xát), trường hợp doanh nghiệp không đủ điều kiện, sẽ tiến hành thu hồi ngay giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh.
Như vậy, nếu đã đáp ứng điều kiện, việc yêu cầu doanh nghiệp phải xin cấp Giấy chứng nhận mới sau mỗi 5 năm là không cần thiết. VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bãi bỏ quy định về thời hạn Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo.
Tạo điều kiện cho gạo chất lượng cao của Việt Nam xuất khẩu
Thực tiễn cho thấy, từ khi Nghị định 107/2018/NĐ-CP ra đời, nông dân có thêm sự lựa chọn khi tiêu thụ lúa gạo mình làm ra, giảm tình trạng bị ép giá. Đồng thời, nhiều doanh nghiệp đã phát hiện và thâm nhập các thị trường khó tính mà trước đây gạo của Việt Nam chưa thể tiếp cận.
Mặc dù vậy, theo phản ánh của một số doanh nghiệp, để đáp ứng được Quy chuẩn kỹ thuật về kho và cơ sở xay, xát thóc gạo tại Thông tư 12/2013/TT-BNNPTNT, doanh nghiệp vẫn cần chi phí đầu tư lớn, kể cả trong trường hợp đi thuê.
Thông tư 12/2013/TT-BNNPTNT vẫn yêu cầu nhiều điều kiện mang tính quy mô như dung tích của silo chứa gạo, công suất của máy xay xát 10 tấn/giờ và nhiều yêu cầu khác. Các điều kiện này chỉ phù hợp với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo số lượng lớn, doanh nghiệp nhỏ đang cố gắng thâm nhập các thị trường mới rất khó đáp ứng.
Đại diện VCCI nhận định, nhiều doanh nghiệp của Việt Nam rất năng động trong việc tìm kiếm các thị trường mới như châu Âu, Canada, Trung Đông,… Đây là những thị trường nhập khẩu số lượng ít, nhưng đòi hỏi chất lượng gạo cao, quy cách bảo quản, bao bì đóng gói đẹp và có giá rất tốt.
Hơn nữa, khách hàng tại các thị trường này chủ yếu là siêu thị, chuỗi cửa hàng,… thường có nhu cầu tìm kiếm các doanh nghiệp cung cấp nhiều loại nông sản cùng lúc, chứ không chỉ riêng mặt hàng gạo.
Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam không thể đáp ứng tất cả các điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo như trên, nên buộc phải ủy thác xuất khẩu cho doanh nghiệp đủ điều kiện. Theo phản ánh, mức phí ủy thác xuất khẩu hiện khoảng 1-5 USD/tấn hàng.
Nói cách khác, các doanh nghiệp có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đang có quyền cho thuê giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh để được hưởng mức phí này. Vô hình trung, các quy định về điều kiện xuất khẩu gạo đang khiến hạt gạo của Việt Nam trở nên đắt hơn, khó xuất khẩu hơn.
Do đó, về lâu dài, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục mở rộng cửa, "nới lỏng" hơn các điều kiện đầu tư kinh doanh xuất khẩu gạo, tiến tới tự do hóa thị trường. Việc bảo đảm dự trữ gạo bắt buộc nên được thực hiện theo hình thức Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp theo cơ chế thị trường, thay vì biện pháp hành chính như hiện nay.
Gửi phản hồi
In bài viết