Khám sức khỏe cho bà mẹ, trẻ em.
Một số tỉnh, thành phố tiếp tục tăng cao mức sinh
Đạt mức sinh thế vào năm 2006 với tổng tỷ suất sinh (TFR) = 2,09 con/phụ nữ và duy trì mức sinh thay thế trong 15 năm qua nhưng hiện nay, mức sinh vẫn không đồng đều giữa các vùng, miền và các tỉnh, thành phố.
Đặc biệt, tại một số nơi điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, chưa phát triển, mức sinh vẫn cao, thậm chí rất cao trên 2,5 con.
Theo ông Nguyễn Doãn Tú, Tổng cục Trưởng Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình, trong 6 vùng kinh tế-xã hội, hiện có 4/6 vùng có mức sinh cao trên mức sinh thay thế. Trong đó, trung du miền núi phía bắc là 2,41 con, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền trung là 2,31 con, Tây Nguyên là 2,41 con, đồng bằng sông Hồng là 2,34 con.
2/6 vùng còn lại thì dưới mức sinh thay thế gồm đồng bằng sông Cửu Long là 1,82 con, Đông Nam Bộ là 1,62 con.
“Chênh lệch giữa mức sinh vùng cao nhất là Trung du miền núi phía bắc-Tây Nguyên và vùng thấp nhất (Đông Nam Bộ) là 0,79 con”, đại diện Tổng cục Dân số cho hay.
Trong khi mức sinh tại khu vực thành thị đã đạt và ở dưới mức sinh thay thế trong nhiều năm qua thì mức sinh tại khu vực nông thôn hiện vẫn còn cao (TFR=2,29 con). Chênh lệch mức sinh giữa khu vực nông thôn-thành thị ở mức 0,41 con.
Có đến 33/63 tỉnh, thành phố, phần lớn là những địa phương có điều kiện kinh tế-xã hội còn rất khó khăn, có mức sinh trên 2,2 con, thậm chí nhiều tỉnh, thành phố mức sinh còn rất cao, trên 2,5 con.
21 tỉnh, thành phố có mức sinh dưới 2,0 con và chỉ có 9 tỉnh, thành phố có mức sinh chung quanh mức sinh thay thế (từ 2,0 đến 2,2 con).
Cần tăng cường công tác truyền thông dân số.
Cần tăng cường công tác truyền thông dân số.
Chênh lệch mức sinh giữa nơi cao nhất (Hà Tĩnh với TFR = 2,97 con) và nơi thấp nhất (TP Hồ Chí Minh với TFR = 1,35 con) là 1,62 con.
Đáng chú ý, tại một số nơi trước đây đã đạt mức sinh thay thế, nay tăng rất cao trở lại như: Khu vực nông thôn từ 2,11 con (năm 2010) nay tăng lên 2,29 con (năm 2020); đồng bằng sông Hồng từ 2,04 con (2010) lên 2,34 con (2020); một số tỉnh phía bắc như:Tuyên Quang từ 2,05 con (năm 2008) lên 2,51 con (năm 2019), Phú Thọ từ 1,99 con (năm 2007) lên 2,57 con (năm 2019), Nam Định từ 1,76 con (năm 2012) lên 2,74 con (năm 2019), Hải Dương từ 1,95 con (năm 2017) lên 2,48 con (năm 2019)...
Một số tỉnh, thành phố thuộc vùng mức sinh thay thế có mức sinh biến động tăng cao trên 2,2 con vào năm 2020 như: Hà Nội, Quảng Ninh, Bình Định, Bình Phước.
Mức sinh cao đã tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế-xã hội, giải quyết việc làm, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục… làm tăng khoảng cách phát triển và chất lượng cuộc sống của nhân dân các địa phương này so với các khu vực khác.
Mất cân bằng giới tính khi sinh
Từ năm 2006 đến nay, hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh luôn ở mức trên 110 trẻ trai/100 trẻ gái sinh ra sống. Tình trạng này vẫn có xu hướng lan rộng.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2018, tỷ số giới tính khi sinh là 114,8 trẻ trai/100 trẻ gái sinh ra sống, năm 2019 giảm còn 111,5; đến năm 2020 tăng lên mức 112,1.
Năm 2020, 5/6 vùng kinh tế-xã hội ở Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh, chỉ có Tây Nguyên ở mức cân bằng với tỷ số giới tính khi sinh là 106, còn vùng đồng bằng sông Hồng vẫn là khu vực xảy ra tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở mức cao nhất (113,6).
Mất cân bằng giới tính khi sinh xảy ra ở cả thành thị và nông thôn. Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố năm 2020, 21/63 tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh từ 112 trở lên, 18/63 tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh từ 109-112 và 24/63 tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh dưới 109.
Mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng như tình trạng dư thừa số lượng nam giới so với nữ giới ở độ tuổi trưởng thành, việc tìm kiếm bạn đời. Việc gia tăng tỷ số giới tính khi sinh dẫn đến nguy cơ tăng thêm sự bất bình đẳng giới, tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết, tình trạng bạo hành, buôn bán phụ nữ và trẻ em gái có nguy cơ tăng lên.
Theo ông Nguyễn Doãn Tú, Tổng cục Trưởng Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình, tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam vẫn đang ở mức mất cân bằng tự nhiên (103-107) và xét ở phạm vi vùng kinh tế thì vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh xảy ra ở diện rộng.
Điều đó là do Việt Nam vẫn tồn tại tư tưởng trọng nam hơn nữ, mô hình gia đình truyền thống trong đó coi trọng việc con trai để nối dõi tông đường, thờ phụng tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ.
Bên cạnh đó, việc lạm dụng tiến bộ khoa học công nghệ để lựa chọn giới tính thai nhi vẫn còn xảy ra trong khi việc thực thi các chế tài xử lý vi phạm còn chưa hiệu quả.
"Mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng lớn sẽ tác động rất xấu đến trật tự, an ninh xã hội, an ninh xuyên biên giới, hơn 4 triệu nam giới không có khả năng xây dựng gia đình, ảnh hưởng đến thế hệ tương lai, đến nòi giống Việt", ông Tú nhấn mạnh.
Với mục tiêu từng bước đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, tiến tới đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức dưới 109 trẻ trai/100 trẻ gái vào năm 2030 theo mục tiêu được xác định tại Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030, đòi hỏi phải triển khai toàn diện nhiều giải pháp.
Trong đó, quan trọng là truyền thông nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi đối với công tác kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh; xây dựng, thử nghiệm và thực hiện các chính sách khuyến khích hỗ trợ; nâng cao hiệu lực thực thi những quy định của pháp luật về kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh; đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế.
Gửi phản hồi
In bài viết