Quang cảnh phiên toàn thể Diễn đàn phát triển bền vững đô thị Việt Nam, ngày 17/6.
Các đồng chí: Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương; Lê Văn Thành, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ; Nguyễn Thanh Nghị, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Xây dựng chủ trì diễn đàn. Tham dự còn có hơn 400 đại biểu trực tiếp cùng hơn 2.000 đại biểu trực tuyến tại 872 đô thị trong cả nước và một số điểm cầu quốc tế.
Tại diễn đàn, các tham luận và ý kiến của các đại biểu tập trung đi sâu phân tích và làm rõ định hướng chiến lược đô thị hóa, phát triển đô thị và phát triển kinh tế đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Hầu hết nội dung tham luận, báo cáo chính xoay quanh các vấn đề về hoàn thiện thể chế chính sách và hành động thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW; kinh nghiệm quốc tế về nâng cao năng lực quản trị đô thị; phát triển đô thị xanh, thông minh, bền vững và thích ứng tại Việt Nam; kinh nghiệm xây dựng và phát triển mô hình khu công nghiệp-đô thị-dịch vụ. Trong đó, nổi bật là các vấn đề:
Phát triển đô thị Việt Nam là quyết tâm, nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị
Phát biểu khai mạc phiên toàn thể, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành nêu rõ, quá trình phát triển đô thị đã hòa nhịp cùng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Kinh tế khu vực đô thị liên tục tăng trưởng ở mức cao, bình từ 12-15%, gấp 1,5 đến 2 lần so bình quân chung, trung hằng năm đóng góp khoảng 70% GDP cả nước. Một số đô thị lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh đã hình thành nhiều khu đô thị văn minh, hiện đại, nhất là những trung tâm về khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo. Đó là những tiền đề quan trọng, là cơ sở, nền tảng để chúng ta triển khai các nhiệm vụ phát triển đô thị trong giai đoạn tới.
Tuy nhiên đô thị hóa và phát triển đô thị của đất nước ta vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, hạn chế và nảy sinh nhiều thách thức trong quá trình phát triển. Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch, phát triển đô thị còn nhiều bất cập. Tỷ lệ đô thị còn thấp, phát triển chủ yếu theo chiều rộng. Các mô hình đô thị phát triển bền vững, văn minh, hiện đại còn chưa nhiều. Chất lượng đô thị còn chưa đáp ứng được yêu cầu cả về hạ tầng và năng lực quản lý; việc chỉnh trang, cải tạo các độ thị trung tâm, đô thị cũ, các khu chung cư xuống cấp còn bất cập về cơ chế, chính sách và lúng túng trong tổ chức thực hiện. Tình trạng chung của các đô thị lớn trên toàn quốc là tắc nghẽn giao thông, ngập úng khi có mưa lớn và ô nhiễm môi trường, tỷ lệ đất giao thông, đất cây xanh còn thấp, chưa bảo đảm theo yêu cầu.
Thực tiễn quá trình phát triển đô thị trong những năm vừa qua và thực trạng của hệ thống các đô thị trên toàn quốc hiện nay đặt ra cho chúng ta rất nhiều vấn đề phải giải quyết trong công tác quy hoạch, tổ chức thực hiện quy hoạch, trong công tác quản lý và quản trị đô thị nói chung.
Ngày 24/1/2022, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về “Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” với 5 nhóm quan điểm và 6 nhiệm vụ giải pháp chủ yếu. Những định hướng, quan điểm tại Nghị quyết số 06 của Bộ Chính trị đã khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc phát triển đô thị bền vững, nhằm xây dựng các đô thị ở nước ta tiệm cận các tiêu chuẩn của đô thị văn minh, hiện đại trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. Triển khai có hiệu quả Nghị quyết 06 của Bộ Chính trị là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, trong đó và trước hết là trách nhiệm của Chính phủ và Đảng bộ, chính quyền các địa phương.
Đổi mới toàn diện về phương pháp, quy trình, nội dung và sản phẩm quy hoạch đô thị
Từ những đóng góp tại diễn đàn, đồng chí Trần Tuấn Anh cho rằng, muốn phát triển bền vững đô thị Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị, trước hết cần đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức về đô thị hóa và phát triển đô thị bền vững.
Theo đó, nhận thức rõ đô thị hóa là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững trong thời gian tới; gắn liền quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới. Cần nắm bắt được quy luật, nhận thức đúng và đầy đủ về đặc thù của đô thị để chủ động, sáng tạo các giải pháp phát triển của địa phương. Đồng thời, thực hiện kết hợp đồng bộ và hài hòa giữa cải tạo, chỉnh trang, tái thiết đô thị với phát triển các đô thị mới; phát triển mạnh mẽ liên kết ngành, liên kết vùng và lợi thế kết nối đa chiều của các đô thị; chú trọng tổ chức lại đời sống dân cư và phát triển kinh tế trong quá trình tái thiết và phát triển đô thị.
Đồng chí lưu ý, chọn khâu đột phá quan trọng nhất để xây dựng và phát triển đô thị bền vững là đổi mới toàn diện về phương pháp, quy trình, nội dung và sản phẩm quy hoạch đô thị. Quy hoạch đô thị phải có cách tiếp cận đa ngành, bao trùm với tầm nhìn dài hạn, toàn diện, có tính chiến lược, tôn trọng quy luật thị trường và nguyên tắc phát triển bền vững, với triết lý lấy con người và chất lượng cuộc sống làm trung tâm, văn hóa, văn minh đô thị làm nền tảng.
Quy hoạch đô thị cần bảo đảm tính tầng bậc, liên tục, thống nhất, đầy đủ, tích hợp của hệ thống quy hoạch, gắn kết chặt chẽ quy hoạch đô thị với quy hoạch nông thôn; tiến hành phân định rõ các vùng trong nội dung quy hoạch đô thị và áp dụng các công cụ kiểm soát chặt chẽ quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị, khuyến khích tạo việc làm tại chỗ để hạn chế di dân quá lớn vào các đô thị lớn; gắn đồng bộ quy hoạch đô thị với nguồn lực thực hiện.
Để triển khai thực hiện, đồng chí đề nghị Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ cần ưu tiên triển khai một số nhiệm vụ khoa học cũng như phối hợp các tổ chức quốc tế triển khai các dự án hỗ trợ kỹ thuật để cung cấp luận cứ cho đổi mới toàn diện lý luận về quy hoạch và phát triển đô thị trong điều kiện thực tế của Việt Nam, phù hợp các vùng, miền trên địa bàn cả nước, bảo đảm phát triển không gian hợp lý, kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng đất đai, dân số, lao động và nguồn nước nhằm tăng cường chất lượng, tính hiệu quả, khả thi và bền vững của đô thị trong các đồ án quy hoạch. Trong đó, chú ý về quy hoạch quản lý sử dụng không gian nổi, không gian ngầm và hệ thống công trình ngầm đô thị - đây là những vấn đề còn chưa được chú trọng trong thời gian qua.
Bộ Xây dựng và các địa phương cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số trong công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển độ thị thông qua các chương trình, đề án ứng dụng rộng rãi hệ thống thông tin địa lý (GIS) và công nghệ số, nền tảng số trong quy hoạch và quản lý phát triển đô thị. Đồng thời, cần sớm chủ trì, phối hợp các bộ ngành liên quan và các địa phương xây dựng hệ thống dữ liệu toàn quốc về quy hoạch phát triển đô thị theo chủ trương đã nêu tại Nghị quyết 06.
Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ cần ban hành các chính sách, chế tài, công cụ để kiên quyết xóa bỏ tình trạng quy hoạch treo, cơ chế “xin-cho”, lợi ích nhóm gắn tư duy nhiệm kỳ và xử lý nghiêm minh đối với các sai phạm trong thực hiện quy định pháp luật về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị.
Đổi mới tư duy, hoàn thiện thể chế chính sách
Đồng chí Trần Tuấn Anh nhấn mạnh cần đẩy nhanh hoàn thiện đồng bộ thể chế, chính sách tạo thuận lợi cho quá trình đô thị hóa, công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị bền vững; trong đó, xây dựng Luật để quản lý phát triển đô thị bền vững cũng là nhiệm vụ quan trọng. Đồng thời, sớm đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về phân loại đô thị bảo đảm tính tương thích, đồng bộ giữa quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính và quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị; nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tiêu chuẩn, quy chuẩn riêng cho xây dựng và lựa chọn mô hình phát triển đô thị bền vững, phù hợp cho từng vùng, miền, đặc điểm các đô thị có tính đặc thù; cần khắc phục triệt để tình trạng nâng loại đô thị khi chưa đủ tiêu chí.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai, đầu tư, quy hoạch, kiến trúc, xây dựng, kinh doanh bất động sản, nhà ở...; sớm hoàn thiện đồng bộ khung pháp lý cho phát triển đô thị thông minh, quản lý hạ tầng kỹ thuật đô thị và không gian ngầm đô thị. Hoàn thiện pháp luật và các cơ chế, chính sách tạo thuận lợi cho các địa phương trong xử lý các vấn đề liên ngành, liên vùng như: bảo vệ nguồn nước, kết nối hạ tầng, quản lý chất thải, sử dụng tài nguyên, đất đai, vận tải công cộng, hạ tầng số và logistic...; đầu tư vào kết cấu hạ tầng vùng và hạ tầng dùng chung, đặc biệt ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
Đồng chí Trần Tuấn Anh đề nghị Chính phủ và các bộ, ngành và địa phương quan tâm bố trí nguồn vốn ngân sách nhà nước tương xứng, bảo đảm thực hiện các mục tiêu của chính sách an sinh nhà ở; sớm ban hành các chính sách ưu đãi, khuyến khích đủ mạnh để thu hút nguồn lực xã hội đầu tư xây dựng nhà ở, nhà cho thuê đối với người thu nhập thấp, thu nhập trung bình, cải tạo, chỉnh trang đô thị, xóa bỏ nhà tạm, khu ở phi chính thức, lụp xụp tại các đô thị.
Qua kiến nghị của các đại biểu, đồng chí cũng đề nghị các đảng đoàn, bán cán sự đảng, các tỉnh ủy, thành ủy liên quan cần sớm chỉ đạo tổng kết việc thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng và các cơ chế, chính sách riêng, có tính đặc thù đối với một số địa phương để làm căn cứ sớm hoàn thiện thể chế về chính quyền đô thị; chỉ đạo tổng kết, hoàn thiện Luật Thủ đô và các quy định phân cấp quản lý cho TP Hồ Chí Minh và các thành phố trực thuộc Trung ương phù hợp yêu cầu phân cấp, trao quyền tự chủ mạnh mẽ cho chính quyền các đô thị.
Tiếp tục hoàn thiện chức năng quản lý nhà nước về đô thị từ Trung ương đến các cấp chính quyền địa phương; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước đầu mối về phát triển đô thị ở Trung ương và địa phương.
Bộ trưởng Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị trình bày tham luận tại Diễn đàn.
Với vai trò là Bộ chủ quản phụ trách lĩnh vực quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị, trong giai đoạn tới, Bộ trưởng Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị kiến nghị các nhiệm vụ cụ thể: Tập trung hình thành Khung pháp luật, thể chế đồng bộ để tạo điều kiện cho quá trình đô thị hóa. Trọng tâm là: xây dựng Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn, Luật Quản lý phát triển đô thị, tạo nền tảng và tính thống nhất, đồng bộ trong quản lý phát triển đô thị; xây dựng hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, tiêu chí, chỉ số về đô thị hóa và phát triển đô thị theo các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, an ninh, an sinh, an toàn đô thị, phát triển đô thị bền vững, phù hợp đặc thù vùng miền, văn hóa, phát triển đô thị xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải…
Đồng thời, xây dựng tiêu chuẩn của đơn vị hành chính đô thị, sửa đổi quy định phân loại đô thị; hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy xử lý các vấn đề liên ngành, liên vùng như kết cầu hạ tầng liên vùng, công tác quy hoạch sử dụng đất theo các không gian kinh tế…; hình thành các chính sách khả thi và hiệu quả hơn để bảo đảm nguồn lực cho các mục tiêu an sinh xã hội, nhà ở xã hội, cải tạo, tái thiết đô thị và cải tạo chỉnh trang đô thị…
Huy động tối đa các nguồn lực phát triển đô thị
Cùng với các nhiệm vụ đó, các ý kiến tại Diễn đàn thống nhất cho rằng cần phát huy và khai thác tốt các nguồn lực từ chính đô thị để nuôi dưỡng và phát triển đô thị, trong đó quy hoạch đô thị và phát triển kết cấu hạ tầng các đô thị phải đi trước một bước và tạo ra nguồn lực chủ yếu cho phát triển đô thị. Kiên quyết xóa bỏ mọi rào cản, vướng mắc để giải phóng các nguồn lực, nhất là từ đất đai cho phát triển đô thị và kinh tế khu vực đô thị; tạo mọi điều kiện và khuyến khích các khu vực kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân tham gia đầu tư phát triển đô thị.
Mỗi địa phương căn cứ vào lợi thế và định hướng phát triển để xác định các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể. Theo đó, các đô thị đặc biệt và các đô thị lớn cần chú trọng phát triển kinh tế dịch vụ, các ngành công nghiệp chế tạo tiên tiến và có tính chiến lược, phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế ban đêm, kinh tế du lịch, thể thao. Các đô thị nhỏ cần tập trung phát triển kinh tế gắn với chuỗi giá trị kinh tế nông nghiệp nông thôn và phát triển dịch vụ xã hội; khuyến khích phát triển các thị tứ, thị trấn nông-công nghiệp trên cơ sở các khu dân cư nông thôn hiện có trở thành các trung tâm dịch vụ, sản xuất, chế biến, cung cấp thực phẩm, nguyên liệu, chuyển giao công nghệ...; chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao tại các đô thị.
Chính phủ và các bộ, ngành liên quan, các địa phương cần quan tâm đẩy nhanh việc di dời có trật tự các cơ sở sản xuất chế biến, chế tạo tận dụng lao động, trung tâm logistic đầu mối, các cơ sở gây ô nhiễm môi trường hoặc có nguy cơ gây ảnh hưởng an toàn cho người dân ra khỏi khu vực trung tâm các đô thị lớn; quy hoạch lại hệ thống bệnh viện, trường đại học, cao đẳng, cơ sở nghiên cứu, trung tâm logistic, trung tâm thương mại, chợ đầu mối, mạng lưới chợ dân sinh.
Bộ Tài chính sớm chủ trì, phối hợp các bộ liên quan nghiên cứu, hoàn thiện chính sách thuế, phí liên quan bất động sản nhằm khuyến khích sử dụng nhà, đất có hiệu quả; thực hiện phân quyền mạnh mẽ cho các chính quyền đô thị các khoản thu từ các loại thuế, phí; thí điểm, tiến tới mở rộng phân cấp cho các thành phố trực thuộc Trung ương và các đô thị khác đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện được quyết định một số khoản thu đặc thù gắn với yêu cầu tăng cường trách nhiệm cung cấp dịch vụ đô thị.
Đối với các đô thị đặc biệt (Hà Nội và TP Hồ Chí Minh), cần rà soát, xác định tỷ lệ nguồn thu giữ lại hợp lý hơn để bảo đảm phát huy vai trò của các đô thị là các cực tăng trưởng, động lực kinh tế của cả nước.
Gửi phản hồi
In bài viết