Có một mùa hè nằm yên trong ký ức, rất khẽ, rất nhẹ. Mỗi khi tiếng ve đầu mùa cất lên, lòng tôi lại nao nao như có ai vừa khẽ gõ cửa, đánh thức những ngày tháng xa xưa, nơi tôi từng là một đứa trẻ, sống trọn vẹn trong từng phút giây dưới ánh nắng chói chang, giữa tiếng cười trong veo và những trò chơi dân gian đơn sơ mà đầy ắp yêu thương.
Kết thúc chiến tranh, tôi lên sáu tuổi. Lúc này đã có nhiều người lính trở về. Nhà tôi gần ga tàu. Sáng sáng lại thấy họ bước xuống từ ga tàu, lưng đeo ba lô khuôn mặt khắc khổ. Ít ngày sau họ chuyển đến làm một cơ quan khác ở huyện hoặc làm thợ, làm vườn nhưng vẫn mang trên mình màu xanh áo lính. Cha tôi vẫn bặt tin. Giấy báo tử chưa gửi về, vậy nên mẹ con tôi còn chút hy vọng dù thấp thỏm từng ngày. Mong sao bác đưa thư không dừng xe trước cửa nhà mình.
Tôi ngồi lặng dưới mái hiên, kéo chiếc ghế gỗ cũ kỹ ra sát rìa hiên rồi giơ tay đón từng giọt mưa đang rơi lách tách. Mưa lạnh lẽo luồn qua từng kẽ tay, len sâu vào những ngóc ngách tưởng đã ngủ yên trong tâm hồn. Một cảm giác nhói buốt lan nhẹ qua tim - nơi cất giữ những ký ức cũ kỹ mà chỉ cần một giọt mưa thôi cũng đủ khơi dậy cả trời thương nhớ.
Tháng Sáu về, không rực rỡ như tháng Năm với nắng vàng rực rỡ, cũng chẳng trầm buồn như tháng Bảy với những cơn mưa dầm dề dai dẳng. Tháng Sáu với những cơn mưa rào bất chợt, ào ạt trút xuống rồi lại vội vã tạnh, để lại sau lưng bầu không khí trong lành, tinh khiết đến lạ thường.
Lúc ấy vào khoảng 15h ngày 5 tháng 11 năm Giáp Thìn. Ông Phố ngồi lặng nhìn từng nhịp thở của Cung. Chợt ông thấy nó mở bừng mắt rồi loay hoay tìm ống tiêm, ông Phố nhẹ nhàng.