Thanh xuân của ngoại
Ngoại hay bảo mình chẳng có thanh xuân. Bởi suốt cả thời tuổi trẻ mòn mỏi chạy giặc, nuôi con, tấm ảnh thờ chồng cũng là tấm bằng Tổ quốc ghi công, ngoại chưa từng có khắc nào sống cho riêng mình.
![]() |
Minh họa: Nguyên Sa |
Trong cái mùi ngai ngái của bùn đất sau mưa, dưới mái hiên có giàn sử quân tử, tiếng ngoại như giăng mắc tôi vào mớ ký ức của một thời xa xăm.
Đó là cái thời ngoại còn móm mém nhai trầu, ngồi ngoài hiên kể vài ba câu chuyện mở đầu bằng “hồi ấy”. Rằng ngày còn xuân xanh, ngoại cũng được khối anh trong làng theo đuổi. Ông ngoại phải "trồng cây si" lâu lắm mới dám ngỏ lời làm quen. Rằng khói lửa chiến tranh đốt sạch mái nhà bà cố. Ngoại ẵm mẹ, chạy băng rừng trên đôi chân trần đầy bùn đất. Lũ trẻ ngồi chồm hỗm quanh ngoại, chống cằm lắng nghe. Lắm lúc, chúng tíu tít hỏi này hỏi nọ đầy ngu ngơ: Thế sao hồi đó bà lại ưng ông? Ngoại chạy giặc, còn đồ đạc phải làm sao đây?... Ngoại chỉ cười khà, đôi mắt đầy nếp nhăn xô lệch vào chân tóc.
Năm mẹ tôi 3 tuổi, ông ngoại theo cách mạng, nhận nhiệm vụ giao liên. Những năm 1963 - 1964 đầy khói lửa, ông mò mẫm giữa những hiểm nguy, đến lá thư tay cũng chẳng thể viết về cho vợ. Tháng 2-1964, câu hứa sẽ về khi hòa bình của ông trở thành giấc mơ xa mãi. Nén nỗi đau, ngoại một mình đảm đương ba vai trò: Làm mẹ, làm cha và làm cách mạng. Từ một người phụ nữ mất chồng năm 21 tuổi vì giặc Mỹ, ngoại xốc lại tinh thần để sống cho cả phần đời chiến sĩ của ông.
Lời kể ngắt quãng bởi những khoảng lặng thật trầm. Chẳng ai trong chúng tôi nén được tiếng thở dài khe khẽ. Trời trở gió, ngoại lúi húi vào nhà và trở ra với chiếc khăn mỏ quạ bằng nhung đen. Khi tiếng chó sủa văng vẳng, bóng đèn dây tóc vàng treo trước hiên được bật sáng, mẹ trải chiếu ra hiên rồi dọn cơm tối, tiếng chén đũa gõ lạo xạo xen ngang tiếng ếch nhái ồm ộp ngoài đồng. Bên mâm cơm ngoài hiên nhà, những câu chuyện ngày xưa lại được ngoại kể tiếp.
Có những hôm sấm chớp đùng đoàng, ngoại ngồi nép bên hiên nhà nhìn về mớ thóc còn bọc trong tấm bạt nhựa sọc xanh. Bao nhiêu miệng ăn đều ngóng chờ trong đấy. Ngoại lom khom kéo tấm vải dù che thêm, trông mưa đừng tạt ướt thóc. Bóng đèn trái ớt màu đỏ loang những vệt sáng từ ban thờ, leo lắt và mỏng tang trong gió mưa bất chợt. Ngoại thắp cho ông nén hương trầm rồi đem thau nhựa ra ngồi trước hiên hứng mớ nước chảy theo kẽ ngói. Bọn trẻ dỏng tai nghe mưa đập lộp bộp trên tàu chuối rồi tíu tít đòi ngoại kể chuyện ma cỏ. Rằng đi trong rừng già mà nghe ai gọi tên thì không được đáp lại. Hoặc có ông kẹ hay rình bắt lũ trẻ trốn học đi chơi đêm giấu trong bụi tre đầu làng.
Tháng Bảy, xóm làng vang lời tri ân ngày thương binh, liệt sĩ qua cái loa phát thanh trên trụ điện, ngoại lại đem ghế ra trước hiên, ngồi ngóng đợi con cháu về thăm như thường lệ. Bọn nhỏ đã chẳng còn xúm xít quanh chân ngoại nghe lời kể như thuở bé, nhưng lời kể vẫn cứ văng vẳng đâu đó trên những cột khói rơm cay xè mắt mũi. Lời kể cũng có khi hóa thành gió, chạm nỗi nhớ lạnh buốt vào má của đứa con xa quê.
Ngoại bảo mình chẳng có thanh xuân, nhưng chính ngoại đã biến 365 ngày trong năm đều là những ngày đáng nhớ. Ngoại chỉ xem ngày lễ như một dịp để con cháu về thăm, sau bao tất bật ngược xuôi ngoài xã hội.
Giữa mùi ngai ngái vôi trầu, tôi ôm bờ vai gầy của ngoại. Chẳng có quà tặng sang quý cho người anh hùng của lòng tôi, tôi thủ thỉ gửi ngoại những lời chúc hạnh phúc, bình an.
Theo Hanoimoi.vn
Ý kiến bạn đọc