Hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

- Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc”(1). Trong bối cảnh mới của tình hình thế giới và trong nước, việc tích cực, chủ động triển khai chủ trương hội nhập quốc tế theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng sẽ góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tiếp Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres trong chuyến thăm chính thức Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 45 năm Việt Nam tham gia Liên hợp quốc_Ảnh: TTXVN

Quá trình phát triển nhận thức về hội nhập quốc tế qua các kỳ Đại hội Đảng

Khái niệm “hội nhập” được đề cập lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (năm 1996): “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”(2). Đến Đại hội IX (năm 2001), chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được nhấn mạnh: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”(3). Quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện cụ thể trong Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 27-11-2001, của Bộ Chính trị khóa IX “Về hội nhập kinh tế quốc tế”.

Đại hội X của Đảng (năm 2006) tái khẳng định chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và nêu định hướng “đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”(4). Với định hướng này, hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội được đẩy mạnh, nhất là trong khuôn khổ các cơ chế hợp tác của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và do ASEAN làm chủ đạo. Đến Đại hội XI, sau 10 năm hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta đã có bước phát triển tư duy quan trọng với việc chuyển từ “hội nhập kinh tế quốc tế” sang “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”(5), tức là mở rộng phạm vi, lĩnh vực và tính chất của hội nhập. Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW “Về hội nhập quốc tế”. Đây là văn kiện có ý nghĩa chiến lược, thống nhất nhận thức về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và phương hướng nhiệm vụ hội nhập quốc tế của Việt Nam giai đoạn tới.

Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, “Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”.

Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”(6).

Trước bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động khó đoán định, cạnh tranh nước lớn ngày càng gay gắt, xu hướng hình thành cục diện đa cực, đa trung tâm, đa tầng nấc ngày càng rõ hơn, tác động sâu rộng và toàn diện đến cục diện thế giới, khu vực, quan hệ quốc tế và sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia trên thế giới, bên cạnh việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, yếu tố “linh hoạt” và “hiệu quả” cần được tính đến. Thứ nhất, yếu tố “linh hoạt” thể hiện sự nhạy bén, phản ứng mau lẹ, uyển chuyển với những thay đổi của tình hình thế giới và khu vực, bảo đảm khả năng làm chủ cũng như quản lý được tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện của Việt Nam. Thứ hai, yếu tố “hiệu quả” bao gồm việc đạt được các thành tựu, kết quả tích cực từ quá trình hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng đi kèm với việc bảo vệ/bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc một cách cao nhất. Việc bổ sung hai yếu tố “linh hoạt” và “hiệu quả” vào chủ trương hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện của Đảng ta sẽ đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi khách quan của thực tiễn, đồng thời thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng ta về vấn đề hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Các cơ sở, nền tảng để Việt Nam hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả

Trong tiến trình hội nhập quốc tế, để hoạch định và triển khai có kết quả các chủ trương, chính sách hội nhập quốc tế, các quốc gia luôn phải xuất phát từ thực lực của đất nước, thực trạng hội nhập quốc tế, từ nhận thức, đánh giá về các hệ thống thế giới mà quốc gia đang tham gia hội nhập quốc tế; đồng thời, phải xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.

Thực lực của Việt Nam khi đề ra chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả

Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) đã đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả”(7). Khi đề ra chủ trương này, Việt Nam đã trải qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(8).

Điều đó cho thấy, Việt Nam hiện đã có thực lực đủ mạnh để hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và hiệu quả, thể hiện rõ nét trước hết ở quy mô của một nền kinh tế với gần 100 triệu dân và GDP gần 400 tỷ USD(9), đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục nhiều năm(10). Thực lực đó còn là sự ổn định chính trị - xã hội dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng; có vị thế, vai trò của một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; ảnh hưởng ngày càng lớn, tiếng nói ngày càng quan trọng của Việt Nam trong ASEAN và nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế; là sự tham gia của Việt Nam trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, tiêu chuẩn cao, như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA)... Thực lực đó cũng thể hiện ở tiềm lực quốc phòng và an ninh được nâng cao, ở thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân...

Thực lực của đất nước luôn là nhân tố có ý nghĩa quyết định trong tiến trình hội nhập quốc tế. Thực lực càng lớn, càng mạnh, thì càng cho phép có những bước đi hội nhập một cách chủ động, tích cực và linh hoạt, trong khi độc lập, tự chủ được tăng cường. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, nếu không có thực lực thì “ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”(11); “thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn”(12). Việc phát huy nội lực luôn được Đảng ta nhấn mạnh trong các chủ trương về chủ động, tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Thực lực của đất nước có được sau hơn 35 năm đổi mới chính là cơ sở và là động lực để Việt Nam đi vào giai đoạn hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả trong những năm tới để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, hướng đến mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Thực trạng hội nhập quốc tế của Việt Nam

Thực trạng hội nhập quốc tế của một nước luôn được đánh giá một cách định tính theo hai chiều “rộng - hẹp” và “nông - sâu”, tùy theo phạm vi, mức độ tham gia và vị thế của nước đó trong các mặt đời sống của cộng đồng quốc tế, trong nền chính trị thế giới, nền kinh tế thế giới và nền văn minh nhân loại.

Theo chiều “rộng - hẹp”, có ba cấp độ hội nhập là: 1- Hội nhập hẹp, khi quốc gia hội nhập chỉ tham gia một vài lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; 2- Hội nhập tương đối rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia phần lớn các lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; 3- Hội nhập rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia tất cả các lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế.

Theo chiều “nông - sâu”, cũng có ba cấp độ hội nhập là: 1- Hội nhập nông, khi quốc gia hội nhập hầu như không có vị trí, vai trò gì trong cộng đồng quốc tế; 2- Hội nhập tương đối sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trò nhất định trong cộng đồng quốc tế; 3- Hội nhập sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trò đáng kể trong cộng đồng quốc tế.

Quá trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam được khẳng định mạnh mẽ từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001). Ngay từ khi mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có nhiều nỗ lực thiết lập các mối quan hệ bang giao với các nước trên thế giới, tham gia nhiều mặt của đời sống xã hội quốc tế, cộng đồng thế giới. Ngay từ tháng 1-1946, nhân danh Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư đến Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc bày tỏ nguyện vọng Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc(13). Có thể nhắc đến những dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trước Đại hội IX của Đảng (năm 2001), như thiết lập quan hệ ngoại giao với tuyệt đại đa số các nước trên thế giới và quan hệ kinh tế - thương mại với hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới; trở thành thành viên của Liên hợp quốc (năm 1977), Hội đồng tương trợ kinh tế (năm 1978), Liên minh Nghị viện thế giới (năm 1979), Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol) (năm 1991), ASEAN (năm 1995), Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu (ASEM) (năm 1996), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) (năm 1998)...

Tham gia vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu lương thực, đã trở thành một nước xuất khẩu gạo (từ năm 1989) và hiện nay là một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới với lượng xuất khẩu năm 2021 đạt 6,2 triệu tấn; và theo kế hoạch năm 2022, Việt Nam xuất khẩu gạo đạt khoảng 6,3 đến 6,5 triệu tấn(14). Năm 2007, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Năm 2018, Việt Nam đã tham gia ký kết CPTPP với tư cách là một trong 11 nền kinh tế sáng lập.

Từ việc gia nhập WTO đến việc đàm phán, ký kết CPTPP, Việt Nam đã có bước tiến dài trong hội nhập quốc tế, trở thành một nước trực tiếp tham gia định hình khuôn khổ, luật lệ, chiều hướng vận động của nền kinh tế thế giới. Điều này một lần nữa được khẳng định, khi Việt Nam là một trong 14 nước tham gia đàm phán về Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vì thịnh vượng (IPEF). Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư với 230 nước và vùng lãnh thổ; đã ký kết gần 100 hiệp định thương mại song phương, hơn 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 70 hiệp định tránh đánh thuế hai lần...

Sản xuất các sản phẩm công nghiệp hiện đại có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Trong ảnh: Sản xuất và gia công bảng vi mạch tích hợp sử dụng cho điện thoại di động và các sản phẩm điện tử thông minh tại Công ty TNHH Hana Micron Vina 100% vốn đầu tư của Hàn Quốc)_Ảnh: TTXVN

Tham gia vào nền chính trị thế giới, Việt Nam để lại nhiều dấu ấn và thể hiện là một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam đã hai lần được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009 và nhiệm kỳ 2020 - 2021); hai lần được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016 và nhiệm kỳ 2023 - 2025). Việt Nam đã đăng cai và chủ trì tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế quan trọng, như Hội nghị cấp cao Tổ chức các nước sử dụng tiếng Pháp (năm 1997), Hội nghị cấp cao ASEAN (các năm 1998, 2010 và 2020), Hội nghị cấp cao ASEM (năm 2005), Hội nghị cấp cao APEC (các năm 2006 và 2017)... Từ năm 2014, Việt Nam đã cử một số sỹ quan và đơn vị quân đội, sỹ quan công an tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

Đóng góp tích cực cho nền văn minh nhân loại, Việt Nam có ba di sản thiên nhiên thế giới(15), 15 di sản văn hóa thế giới (vật thể và phi vật thể)(16) và bốn di sản tư liệu thế giới(17) được UNESCO vinh danh. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được UNESCO vinh danh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam.

Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào thoái trào, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào khủng hoảng sau khi Liên Xô tan rã, đường lối và thực tiễn đổi mới thành công ở Việt Nam cũng được các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới và bạn bè quốc tế ghi nhận như một đóng góp tích cực của Việt Nam vào tiến trình phát triển hòa bình, ổn định của thế giới. Đại hội XXIII của Đảng Cộng sản Nhật Bản (tháng 1-2004) nhận định: “Quá trình tìm tòi mới tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường ở Việt Nam, Trung Quốc đang trở thành một hướng đi quan trọng của thế giới trong thế kỷ XXI”(18). Hội thảo quốc tế “Về triển vọng của chủ nghĩa xã hội”, họp tại Pra-ha (Cộng hòa Séc), tháng 4-2005, với sự tham gia của 39 đảng cộng sản, công nhân và cánh tả từ 34 nước trên thế giới, cho rằng: “Sự phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và việc gắn những ưu việt của chính quyền nhân dân với những thành tựu mới nhất của khoa học và kỹ thuật, với sự tham gia tích cực vào thị trường quốc tế... của Trung Quốc và Việt Nam là sự bổ sung độc đáo vào việc phát triển lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội”(19).

Có thể thấy, từ trọng tâm ban đầu là lĩnh vực kinh tế, tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam đã được triển khai trên tất cả các lĩnh vực. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên có trách nhiệm, có vị trí, vai trò và ảnh hưởng nhất định trong cộng đồng quốc tế, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội... Điều đó có nghĩa là Việt Nam đã hội nhập rộng và tương đối sâu vào nhiều mặt đời sống quốc tế. Đây là cơ sở thuận lợi cho Việt Nam bước sang giai đoạn mới - giai đoạn hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả, với trọng tâm là giành lấy vị trí cao hơn trong nền kinh tế thế giới, nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại. Giai đoạn mới trong tiến trình hội nhập quốc tế càng đòi hỏi Việt Nam phải chủ động hơn, tích cực hơn.

Nhận thức của Việt Nam về thế giới ngày nay

Quá trình hội nhập quốc tế của một nước là việc nước đó tham gia vào các mặt của đời sống cộng đồng quốc tế và trở thành một bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới, mà trước hết và bao trùm là của nền chính trị thế giới, nền kinh tế thế giới và nền văn minh nhân loại. Chính vì vậy, nhận thức đúng về thế giới luôn là một căn cứ quan trọng để các nước hoạch định và triển khai các bước đi hội nhập quốc tế.

Với tư cách là một hệ thống chỉnh thể, thế giới luôn trong trạng thái không ngừng vận động, vừa tuân theo các quy luật và xu thế khách quan, vừa chịu sự tương tác phức tạp giữa các thành tố cấu thành hệ thống, mà trước hết là giữa các nước, giữa các nền kinh tế và giữa các nền văn hóa. Điều đó làm cho sự vận động của thế giới luôn hết sức phức tạp. Hầu như không thể xác định được chính xác quỹ đạo vận động, mà chỉ có thể xác định chiều hướng vận động của thế giới.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã đưa ra nhận định tổng quát về bối cảnh quốc tế cho cả thời kỳ quá độ lâu dài để Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội. Những nhận định đó thể hiện tầm nhìn dài hạn của Đảng về thế giới ở giai đoạn hiện nay của thời đại lịch sử(20), với những xu thế lớn trong sự vận động của thế giới và xã hội loài người, như: Cách mạng khoa học và công nghệ; quá trình toàn cầu hóa; xu thế hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển; đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp; xu thế phát triển năng động của châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á; xu thế hợp tác đa phương quốc tế trong giải quyết những vấn đề toàn cầu cấp bách...

Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) đã có nhận định khái quát về thế giới đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 và năm 2045. Đó là những nhận định về: xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; những thách thức lớn đối với luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu; xu hướng đa cực, đa trung tâm của cục diện thế giới; khung khổ vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn giữa các nước lớn; sự gia tăng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế; khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài của kinh tế thế giới do tác động của đại dịch COVID-19; sự thay đổi các chuỗi cung ứng do các quốc gia, nhất là các nước lớn, điều chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài; sự dịch chuyển các chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu dưới tác động của cạnh tranh kinh tế...; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; những vấn đề toàn cầu diễn biến phức tạp; vị trí chiến lược ngày càng quan trọng của châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á là khu vực diễn ra cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn; hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột; ASEAN có vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn...

Thực tiễn vận động của thế giới hiện nay cho thấy những nhận định, đánh giá của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Đại hội XIII của Đảng là đúng đắn. Đây là căn cứ quan trọng để Đại hội XIII của Đảng đề ra chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, có hiệu quả.

Các yêu cầu đặt ra trong triển khai hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả của Việt Nam

Thứ nhất, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Đây là vấn đề mang tầm chiến lược của mỗi quốc gia trong tiến trình hội nhập quốc tế. Nếu không giữ được độc lập, tự chủ, thì quốc gia - dân tộc sẽ không thể hội nhập sâu, không thể có được vị trí, vai trò trong chỉnh thể thế giới, mà sẽ chỉ là một bộ phận lệ thuộc vào các cấu phần khác của chỉnh thể thế giới. Ngược lại, càng hội nhập sâu, càng có vị trí, vai trò trong chỉnh thể thế giới, thì quốc gia hội nhập càng có điều kiện củng cố, tăng cường và phát huy độc lập, tự chủ của mình, càng có thể chủ động và tích cực tương tác với các cấu thành khác trong chỉnh thể thế giới, thực hiện tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế và củng cố, tăng cường, phát huy độc lập, tự chủ thông qua hội nhập quốc tế là hai mặt quan hệ biện chứng; cái này là tiền đề cho cái kia. Muốn hội nhập quốc tế có hiệu quả, nhất thiết phải giữ vững độc lập, tự chủ. Muốn củng cố, tăng cường và phát huy độc lập, tự chủ, nhất thiết phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Hoàng Xuân Chiến và Phó Tổng Thư ký Liên hợp quốc Jean-Pierre Lacroix cùng các đại biểu thăm triển lãm ảnh tại Hội nghị quốc tế về phụ nữ với hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc_Ảnh: TTXVN

Thứ hai, thường xuyên xem xét, đánh giá những tác động của các bước đi hội nhập đến sự phát triển ổn định của đất nước để có quyết sách phù hợp.

Nhìn một cách tổng thể, tiến trình hội nhập quốc tế luôn thúc đẩy sự phát triển của quốc gia hội nhập, khi gắn kết sự phát triển của quốc gia với các xu thế phát triển của thế giới. Đây cũng là một nội dung quan trọng của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tuy nhiên, không phải lúc nào các bước đi hội nhập cũng tác động thuận đến sự ổn định và phát triển của đất nước; có thể có cả những tác động không thuận, nhất là khi hội nhập quốc tế không dựa trên thực lực của đất nước hay không giữ vững được độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Vì vậy, phải luôn xem xét, cân nhắc cụ thể những tác động bất lợi có thể có của mỗi bước đi hội nhập đến sự ổn định và phát triển của đất nước để có quyết sách tối ưu.

Điều cần nhấn mạnh là, mặc dù sự vận động của thế giới trong những năm tới sẽ hết sức phức tạp, nhất là về kinh tế và chính trị, an ninh, song Việt Nam đang đứng trước thời cơ chiến lược để phát triển, hướng tới các mục tiêu đã đề ra để trở thành một nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Vấn đề cơ bản nhất là ở chỗ, con đường phát triển của Việt Nam phù hợp với thực tiễn đất nước và với các quy luật phát triển của xã hội loài người, các xu thế lớn trong sự vận động của thế giới.

Sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và quy luật tiến hóa của xã hội loài người. Trải qua đấu tranh lâu dài, gian khổ, Việt Nam đã giành được độc lập dân tộc; độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.

Từ khi tiến hành đổi mới đến nay, Đảng ta luôn nhấn mạnh yêu cầu: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”(21). Trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật kinh tế khách quan, Việt Nam đã và đang xây dựng, tiếp tục hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bắt nhịp với xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam đã chủ động và tích cực hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, xác lập được vị trí, vai trò và ảnh hưởng nhất định cả trong nền kinh tế thế giới, cả trong nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại.

Xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc và phù hợp với xu thế lớn trên thế giới là hòa bình, hợp tác và phát triển, từ Đại hội VII (năm 1991), Việt Nam đã chuyển hướng chiến lược đối ngoại, đã đề ra và thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Nhờ đó, Việt Nam đã trở thành bạn, đối tác tin cậy của các nước trên thế giới và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Tuân theo quy luật về sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất xã hội loài người với những bước nhảy vọt gắn với các cuộc cách mạng công nghiệp, Việt Nam đã sớm nhận thức về cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quyết tâm tận dụng các cơ hội phát triển mà cuộc Cách mạng này mang lại.

Sự phù hợp của con đường phát triển đất nước với các quy luật khách quan, với các xu thế lớn trong sự vận động của thế giới là nhân tố rất quan trọng để Việt Nam giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong hơn 35 năm đổi mới vừa qua, là cơ sở khách quan để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong thời gian tới, mặc dù tình hình thế giới tiếp tục có nhiều biến động phức tạp, khó lường, nhưng các quy luật khách quan, các xu thế lớn vẫn tiếp tục vận động, tạo thành thời cơ chiến lược cho sự phát triển của Việt Nam. Do vậy, chúng ta cần nắm bắt thời cơ chiến lược này để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Một trong những phương hướng phát triển quan trọng là chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả./.

TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG - NGUYỄN THỊ HOA

Nguyên Phó Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương - Tạp chí Cộng sản

-----------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 164
(2), (3) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (phần I), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 690, 878
(4) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (phần II), Sđd, tr. 123
(5) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (phần II), Sđd. tr. 323
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 161 – 162
(7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t I, tr.117, 103 - 104
(9) Theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) (tháng 10-2021), GDP của Việt Nam năm 2019 đạt 327,87 tỷ USD; năm 2020 đạt 343,11 tỷ USD; năm 2021 đạt 368 tỷ USD, năm 2022 dự báo đạt 415,49 tỷ USD; năm 2025 dự báo đạt 570,04 tỷ USD. Nguồn: IMF Wold Economic Outlook (tháng 10-2021), http://Imf.org
(10) Trong hơn 35 năm qua, Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng GDP trên 6%/năm; Việt Nam đứng trong số 40 nền kinh tế có quy mô lớn nhất thế giới.
(11) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 244
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr.147
(13) Xem: Bùi Thanh Sơn: “45 năm quan hệ Việt Nam - Liên hợp quốc: Đối tác tin cậy vì hòa bình, hợp tác và phát triển”, báo Quân đội nhân dân, ngày 20-9-2022
(14) “Việt Nam có thể xuất khẩu gạo đạt và vượt kế hoạch trong năm 2022”, Báo Điện tử Chính phủ, ngày 28-9-2022, https://baochinhphu.vn/viet-nam-co-the-xuat-khau-gao-dat-va-vuot-ke-hoach-trong-nam-2022-102220928085819181.htm
(15) Vịnh Hạ Long; Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng; Quần thể danh thắng Tràng An.
(16) Tiêu biểu như: Quần thể di tích cố đô Huế; Phố cổ Hội An; Thánh địa Mỹ Sơn; Hoàng thành Thăng Long; Thành Nhà Hồ; Nhã nhạc cung đình Huế; Không gian Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên; Dân ca quan họ; Ca trù; Hát Xoan Phú Thọ...
(17) Mộc bản triều Nguyễn; Bia Tiến sĩ Văn miếu - Quốc tử giảm; Mộc bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm; Châu bản triều Nguyễn.
(18), (19) Tài liệu lưu trữ tại Ban Đối ngoại Trung ương.
(20) Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
(21) Xem: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).

Theo Tạp chí Cộng sản điện tử

Tin cùng dòng sự kiện