“Đạo đức”, “văn minh” là những khái niệm của triết học, văn hóa học, đạo đức học,... bên cạnh những giá trị chung mang tính xã hội còn có những giá trị riêng do quy định của tính giai cấp và điều kiện lịch sử - cụ thể. Đối với Đảng ta, khi nói “xây dựng Đảng về đạo đức” thì đạo đức ở đây chính là đạo đức cách mạng, phân biệt với đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản... Đạo đức cách mạng bao gồm các nguyên tắc, chuẩn mực phản ánh bản chất của Đảng, có tác dụng điều chỉnh hoạt động trong toàn Đảng và mỗi đảng viên, có tính lan tỏa, định hướng đạo đức xã hội nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, lý tưởng cao đẹp đã đề ra. Đạo đức cách mạng là cốt lõi của văn hóa chính trị, văn hóa cầm quyền. Nói tới “văn minh” trong trường hợp này là nói tới trình độ lãnh đạo, quản lý của một chính đảng, một nhà nước, rộng hơn là các chủ thể quản trị quốc gia, mà thước đo được đánh giá ở tính ưu việt, tiến bộ, vượt qua cái thoái bộ, lạc hậu. Khi nói “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” là bao hàm cả đạo đức, văn minh của toàn Đảng và đạo đức, văn minh của mỗi đảng viên; thể hiện ở bản chất, mục tiêu, sứ mệnh, tổ chức và hoạt động, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tư cách, nghĩa vụ và hành động của người đảng viên.
Bác Hồ với nữ chiến sĩ thi đua miền Bắc _Tranh: Tư liệu
1- Bản chất chính là phần “lõi” làm nên phẩm cách “đạo đức”, “văn minh” của một đảng chính trị, mà nếu xa rời phần “lõi” ấy thì cũng đồng nghĩa với suy thoái đạo đức và đi ngược lại văn minh. Đây là xem xét mặt đạo đức, văn minh từ mục đích hướng tới, đối tượng phục vụ, nhờ đó minh định hoạt động của một đảng chính trị thúc đẩy cái tiến bộ, văn minh hay duy trì, bảo vệ cái thoái bộ, phản văn minh; vì lợi ích công hay lợi ích tư; vì quyền lợi của đa số nhân dân hay vì “lợi ích nhóm” của thiểu số lực lượng cầm quyền.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Bản chất của Đảng được khẳng định không chỉ qua tuyên ngôn chính trị, mà quan trọng hơn là bằng hành động chính trị, với sự thống nhất giữa tri và hành, giữa lời nói và việc làm. Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã công khai tuyên bố bản chất của mình gắn với mục đích xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn tình trạng người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Bản chất, mục đích đó khẳng định sứ mệnh của Đảng là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, vì tiến bộ xã hội, kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người là một sự nghiệp cao cả, hiện thân cho đạo đức, văn minh, đối lập với thực dân, bóc lột, áp bức, bất công, chà đạp lên phẩm giá con người là phi đạo đức, phản văn minh. Hiện thân “là đạo đức, là văn minh”, bởi ngoài lợi ích của quốc gia - dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, vì tiến bộ xã hội, văn minh cho nhân loại, Đảng ta không có lợi ích nào khác.
Công khai tuyên bố bản chất, mục đích, sứ mệnh không chỉ có ý nghĩa tạo dựng ngọn cờ dẫn lối, soi đường, thống nhất hành động trong Đảng, tập hợp lực lượng dân tộc, đoàn kết quốc tế, mà còn là cơ sở cho nhân dân giám sát Đảng qua hành động thực tế. Đó là phẩm chất đạo đức, tính chính đáng của một đảng mác-xít chân chính. Điều này khác biệt hoàn toàn với không ít đảng phái trên thế giới, dù mang tên Đảng Công nhân (Labour Party) hoặc Đảng Dân tộc (Nation Party),... nhưng trên thực tế lại không hề phản ánh bản chất giai cấp công nhân, không đại diện cho lợi ích của dân tộc và nhân dân lao động. Rất phổ biến trong các nền dân chủ đa nguyên phương Tây là mỗi chính đảng đại diện cho lợi ích của một phe nhóm, tập đoàn người cụ thể, mà trong nhiều trường hợp vì lợi ích ích kỷ của phe nhóm sẵn sàng hy sinh lợi ích của đa số nhân dân lao động.
2- “Đạo đức”, “văn minh” của Đảng thể hiện trước hết ở sự kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế của thời đại và thực tiễn đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Đây là đạo đức, văn minh xét từ phương diện hoạch định đường lối chính trị trung thành với nền tảng tư tưởng đã lựa chọn và ý thức, trách nhiệm kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Kiên định với lòng trung thành và tinh thần sáng tạo “là đạo đức, là văn minh”, khác biệt hoàn toàn với bảo thủ, giáo điều hoặc cơ hội chính trị. Phải trong những hoàn cảnh khó khăn, thử thách mới biết đâu là kiên định, đâu là thói xu thời, cơ hội chính trị, nhất là vào thời điểm chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, không ít Đảng Cộng sản từ bỏ lời thề ban đầu, phản bội chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Trên tinh thần kiên định và sáng tạo, ngay từ khi bắt đầu khởi động công cuộc đổi mới, Đảng ta khẳng định dứt khoát, đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển, chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp(1). Đây là những tư tưởng đổi mới được thực hiện bằng động cơ đạo đức, thể hiện tinh thần kiên định và sáng tạo, chống cả bảo thủ, giáo điều và cơ hội chính trị.
Coi trọng, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ nhân loại thể hiện phẩm chất đạo đức, trình độ tư duy của Đảng cách mạng luôn vươn tới tầm cao trí tuệ bằng tinh thần biện chứng, kế thừa giá trị lịch sử dân tộc và học hỏi văn minh nhân loại. Đó là thái độ khoa học với di sản quá khứ của ông cha và di sản văn hóa nhân loại bằng tinh thần kế thừa, đổi mới và phát triển. Nó xa lạ với bệnh giáo điều, rập khuôn mô hình bên ngoài mà không tính đến đặc điểm quốc gia - dân tộc, tuyệt đối hóa tính phổ biến mà xem nhẹ tính đặc thù. Nó cũng đối lập với những quan niệm phi đạo đức, theo đuổi chủ nghĩa dân tộc cực đoan, dân tộc hẹp hòi. Tiếp thu trí tuệ, tinh hoa văn hóa, thành tựu văn minh nhân loại chính là biết “đứng trên vai người khổng lồ” để Đảng cầm quyền và dân tộc ta trưởng thành hơn, lớn mạnh hơn. Điều này khác với chủ nghĩa biệt lập, tách dân tộc khỏi thế giới, không những cản trở khả năng tiếp thu tinh hoa văn hóa, văn minh nhân loại, mà còn đánh mất cơ hội hội nhập quốc tế, phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam trên thế giới.
Nắm vững quy luật khách quan, xu hướng vận động thực tiễn để đề ra Cương lĩnh, đường lối phù hợp với nguyện vọng của nhân dân vừa là đạo đức, vừa là văn minh. Tính đúng đắn, sáng suốt của đường lối chính trị được bảo đảm bằng trình độ tư duy và phẩm chất đạo đức. Nếu trình độ tư duy là điều kiện “cần” thì động cơ đạo đức là điều kiện “đủ” cho hoạch định đường lối và phương pháp lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt. Nói cách khác, đạo đức “chí công vô tư”, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, loại bỏ mọi lợi ích cục bộ, cá nhân không chính đáng,... có tác dụng phòng ngừa bệnh chủ quan duy ý chí, tránh được sai lầm, nhờ đó hoạch định được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh có một nhận xét hết sức sâu sắc về vấn đề này: Người có đạo đức thường tiếp thu chân lý dễ hơn, “Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt... ngày càng thêm”(2). Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, không ít sai lầm về đường lối và phương pháp lãnh đạo thường xuất phát từ bệnh chủ quan duy ý chí, thoát ly thực tế, không quan tâm đầy đủ nguyện vọng của nhân dân. Trong điều kiện kinh tế thị trường, sai lầm trong lãnh đạo - quản lý còn có thể do cài đặt “lợi ích nhóm” khi hoạch định chính sách, từ đó làm méo mó, biến dạng bản chất, mục đích chính sách công, gây ảnh hưởng, tổn hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc. Những trường hợp nêu trên đều là những hành vi thiếu đạo đức, đi ngược lại cách thức tổ chức quản lý xã hội văn minh, phải được phòng ngừa, ngăn chặn, kiên quyết đấu tranh loại bỏ.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân tại Lễ hội Đền Hùng _Ảnh: Tư liệu
3- “Đạo đức”, “văn minh” của Đảng còn thể hiện ở trình độ tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đây là điểm khác biệt căn bản giữa một đảng cách mạng chân chính với những đảng phái đại diện cho từng nhóm lợi ích trong các thể chế dân chủ đa nguyên. Nói cách khác, đây chính là đạo đức, là văn minh xét từ chiều cạnh khoa học tổ chức của một đảng chính trị kiểu mới.
Tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, kỷ luật nghiêm minh làm nên sức mạnh của Đảng, phản ánh trình độ, năng lực của một đảng chính trị kiểu mới. Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trên đất nước ta, không ít tổ chức chính trị đã xuất hiện, theo các lập trường tư tưởng khác nhau, tổ chức thiếu chặt chẽ, thậm chí lỏng lẻo, để cho cả mật thám Pháp chui vào phá hoại nội bộ; các thành viên thiếu thống nhất về tư tưởng, không nhất quán về hành động;... nên dần rơi vào suy yếu, phân liệt, tan rã. Trên thế giới, nhiều đảng chính trị được tổ chức không khác gì câu lạc bộ, phường hội, kết nạp thành viên theo kiểu “đánh trống ghi tên”, thiếu sức mạnh của nguyên tắc tổ chức, kỷ luật, làm cho đảng viên dễ ngả nghiêng, dao động, thay đổi lập trường khi gặp khó khăn, thậm chí còn sẵn sàng “trở cờ” gia nhập đảng phái khác. Ngược lại, Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức chặt chẽ, dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, toàn Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động, triệu người như một, tạo nên sức mạnh vô địch, không chỉ đề kháng, đấu tranh có hiệu quả với sự tấn công phá hoại từ bên ngoài, mà còn phòng ngừa, ngăn chặn, triệt tiêu từ sớm, từ xa các nguy cơ suy thoái từ bên trong.
Sức mạnh của Đảng được tạo nên bởi tổ chức chặt chẽ, dựa trên các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của một đảng mác-xít chân chính, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản. Tổ chức chặt chẽ phản ánh trình độ khoa học tổ chức của một chính đảng kiểu mới, cho phép tối ưu hóa việc thực hiện các quyết sách chính trị, thống nhất giữa đường lối tổ chức và đường lối chính trị, làm cho “dọc ngang thông suốt”, “trên dưới đồng lòng”, bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngọn nguồn của sức mạnh tổ chức chính là dựa vào các nguyên tắc tổ chức, cơ chế vận hành, kỷ luật tự giác, bảo đảm chuyển hóa sức mạnh cá nhân thành sức mạnh tập thể, sức mạnh bên ngoài thành sức mạnh bên trong, sức mạnh từng thành tố thành sức mạnh tổng hợp. Thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ một cách thực chất, nghiêm túc khiến trí tuệ, năng lực của mỗi tổ chức đảng và đảng viên được khơi dậy, tôn trọng, phát huy đầy đủ; quyền lực chính trị được tập trung một cách chính đáng, có trách nhiệm, đủ quyền năng để ra quyết định và tổ chức thực hiện thắng lợi mọi quyết sách; phòng ngừa khả năng tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc đoán cũng như loại bỏ nguy cơ tự do vô chính phủ, đẩy Đảng tới chỗ phân liệt. Tuân thủ nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ còn đặt ra yêu cầu giữ vững kỷ cương, kỷ luật. Mọi đảng viên không được nói, viết và làm trái với Cương lĩnh, Điều lệ, quy định của Đảng; mọi vi phạm đều phải bị xử lý nghiêm từ trên xuống dưới, không có ngoại lệ. Kỷ luật nghiêm minh của Đảng là cơ sở cho giữ vững kỷ cương, phép nước, xây dựng xã hội văn minh.
“Đạo đức”, “văn minh” của Đảng còn thể hiện ở việc giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng, thực hành tự phê bình và phê bình, mọi tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Đoàn kết thống nhất dựa trên nhận thức sâu sắc và hành động nhất quán theo Cương lĩnh, đường lối chính trị, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Khi xây dựng đường lối, chủ trương phải thực hành dân chủ rộng rãi, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng khi đã thành quyết định chính trị thì mọi tổ chức đảng và đảng viên đều phải phục tùng, nghiêm chỉnh thực thi, không cho phép ai nói và làm trái nghị quyết. Nghịch chiều với đoàn kết thống nhất là chia rẽ, bè phái, “lợi ích nhóm”, nguy hại khôn lường, đẩy Đảng rơi vào suy yếu, phân liệt. Tự phê bình và phê bình là một cơ chế phòng ngừa, tự phát hiện lỗi và sửa chữa lỗi khi còn mới manh nha, ngăn chặn khả năng biến thành khuyết điểm nghiêm trọng. Điều này phân biệt với các biểu hiện chủ quan, tự mãn, thiếu nghiêm khắc với chính mình và đồng chí của mình, từ đó mà phát sinh khuyết điểm. Quản trị xã hội văn minh đặt ra yêu cầu nghiêm cẩn đối với mọi công dân phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; trong đó, tổ chức đảng và đảng viên phải làm gương, không cho phép bất cứ ai đứng trên pháp luật và đứng ngoài pháp luật. Quy định pháp luật là đạo đức tối thiểu, nếu công dân được làm những gì pháp luật không cấm thì cán bộ, đảng viên chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Gắn bó máu thịt với nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng không chỉ là yêu cầu, mà còn là nghĩa vụ đạo đức của mọi tổ chức đảng và đảng viên khi đã xác định sứ mệnh phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, lấy sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân làm cơ sở chính trị cho tồn tại và hoạt động của Đảng.
4- “Đạo đức”, “văn minh” của Đảng còn thể hiện ở nội dung quan trọng là tư cách, nghĩa vụ, trách nhiệm của đảng viên. Mỗi đảng viên khi nhận thức và hành động đúng theo các chuẩn mực “đạo đức”, “văn minh” thì sẽ trở thành nhân tố quan trọng nhất cho xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Nói cách khác, đây chính là xem xét phẩm cách “đạo đức”, “văn minh” của Đảng qua đảng viên - nhân tố “động” cấu thành tổ chức đảng.
Tư cách người đảng viên cộng sản thể hiện tập trung ở phẩm chất đạo đức, trình độ, tính tiên phong để xứng đáng với vai trò lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền. Tư cách đó giúp người đảng viên làm tròn vai trò tiền phong, gương mẫu, “đảng viên đi trước, làng nước đi sau”; suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; định hình chế độ kỷ luật tự giác, chấp hành nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Để hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo và trách nhiệm cầm quyền, người đảng viên phải nỗ lực phấn đấu, rèn luyện suốt đời về mọi mặt, được chế định thành tiêu chuẩn cụ thể về trình độ học vấn, trình độ lý luận, năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo đức, lối sống, gắn bó máu thịt với nhân dân, phục tùng tổ chức, giữ nghiêm kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng. Là đảng viên của Đảng cầm quyền, nắm giữ cương vị càng cao thì càng phải nêu gương học tập, rèn luyện để hội đủ tiêu chuẩn cao cả về trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức. Tư cách đảng viên đòi hỏi mỗi đảng viên phải tự giác tuân thủ kỷ luật, tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời, rèn luyện phong cách, lối sống hằng ngày, cả trong hoạt động công vụ và sinh hoạt đời thường, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”, phòng ngừa nguy cơ suy thoái.
Nghĩa vụ đảng viên là sự cụ thể hóa bản chất, mục đích, sứ mệnh của Đảng thành những công việc cụ thể mà đảng viên phải thực hiện bằng tất cả lương tâm, danh dự, tình cảm và trách nhiệm. Nhìn vào nghĩa vụ đảng viên có thể lượng hóa được đạo đức cách mạng, trình độ và năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Điều lệ Đảng của các kỳ đại hội Đảng đã thao tác hóa nghĩa vụ đảng viên thành các nhiệm vụ đảng viên gắn với trách nhiệm chính trị cụ thể, như Điều lệ Đảng (do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua vào tháng 1-2011) đã nêu 4 nhiệm vụ đảng viên(3). Ngoài quy định của Điều lệ Đảng, nghĩa vụ, nhiệm vụ, trách nhiệm đảng viên còn được cụ thể hóa trong các quy định cá biệt, nhất là Quy định về những điều đảng viên không được làm (19 điều), hay nhận diện những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ (27 biểu hiện). Từ phương diện đạo đức cầm quyền, nghĩa vụ đạo đức đảng viên bao gồm những công việc đảng viên phải làm bằng lương tâm, danh dự, trách nhiệm tự giác, thể hiện qua xử lý các mối quan hệ cơ bản, như với chính mình, với Đảng, với nhân dân, với công việc. Với chính mình, đó là nghĩa vụ, trách nhiệm phải thường xuyên tự học tập, nâng cao trình độ, năng lực mọi mặt; tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, phong cách, lối sống để xứng đáng với vai trò lãnh đạo, cầm quyền, phòng ngừa, đấu tranh với mọi cám dỗ, các biểu hiện, hành vi làm xói mòn bản chất của một đảng cách mạng chân chính, trước hết là đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, tiêu cực. Với Đảng, đó là phẩm chất trung thành tuyệt đối, thể hiện ở tinh thần kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; chấp hành, phục tùng Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối của Đảng; thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải kiên quyết đấu tranh, nhất là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Với nhân dân, chính là thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, mọi hoạt động đều vì nhân dân phục vụ, làm tốt công tác dân vận, công tác xã hội, đấu tranh với các biểu hiện quan liêu, xa dân. Với công việc, phải phục tùng mọi nhiệm vụ được phân công; toàn tâm, toàn ý với công việc; dũng cảm đối mặt với mọi khó khăn, thách thức; năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; nỗ lực, quyết tâm cao nhất để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Pa Thơm tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới đồng bào tại bản Pa Xa Lào, xã biên giới Pa Thơm, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên _Ảnh: TTXVN
5- Đảng luôn nhận thức rõ, muốn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng thành công thì bản thân Đảng phải trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, mà sâu xa chính là đấu tranh giữa cái tiến bộ với cái thoái bộ, giữa đổi mới với bảo thủ, trì trệ, giữa tính cách mạng với những lực cản níu kéo. Đây chính là đạo đức, văn minh nhìn từ chiều cạnh nắm vững quy luật vận động nội tại của một đảng cách mạng để không ngừng vươn tới hoàn thiện năng lực lãnh đạo, giữ gìn và thúc đẩy các phẩm chất tốt đẹp, khẳng định tính chính đáng của sự cầm quyền.
Tự đổi mới, tự chỉnh đốn trước hết xuất phát từ nhu cầu tự thân của Đảng nhằm tăng cường tính chính đáng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân, phù hợp với bối cảnh mới của đất nước và thời đại. Nhu cầu khách quan đòi hỏi Đảng cầm quyền phải không ngừng hoàn thiện chính mình thông qua tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nếu không sẽ bị thực tiễn vượt qua, không bắt kịp với sự vận động của thế giới, thay đổi của thời thế. Tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng còn xuất phát từ yêu cầu kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của một Đảng “là đạo đức, là văn minh” được Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo tiền bối nhiều thế hệ dày công gây dựng, vun đắp, kể cả hy sinh xương máu của các bậc tiên liệt. Đi vào kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nếu Đảng không tự đổi mới, tự chỉnh đốn thì không thể đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng với những đòi hỏi cao hơn, thách thức lớn hơn. Không ít nguy cơ, thách thức với tính chất phức tạp hơn, mối đe dọa nguy hiểm hơn vẫn xuất hiện hằng ngày, hằng giờ, vì thế, nếu không thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn thì sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường, nhất là các mối đe dọa đối với nguy cơ tồn vong của chế độ từ tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Đổi mới là phủ định cái lạc hậu, khắc phục các khiếm khuyết, kiến tạo nên giá trị mới, không ngừng vươn tới cái tiến bộ, ưu việt, hoàn thiện hơn, dựa trên kiên định lập trường, nguyên tắc. Vào giữa thập niên 80 của thế kỷ trước, khi đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, đổi mới trở thành mệnh lệnh đạo đức tối cao để tháo gỡ rào cản cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, giải phóng mọi tiềm năng, sức mạnh của nhân dân, làm cho đất nước phát triển. Đổi mới là một quá trình liên tục, không có điểm kết thúc, làm cho Đảng hoàn thiện hơn cả trong nhận thức lý luận và hành động thực tiễn, tổ chức bộ máy và con người, phong cách lãnh đạo và phương pháp làm việc... Đổi mới tư duy lý luận đóng vai trò quan trọng hàng đầu nhằm bảo đảm cho lý luận đủ sức vươn lên dẫn đường và đồng hành cùng thực tiễn, làm cho đường lối chính trị luôn sáng suốt, có khả năng dự báo cao, có tầm nhìn dài hạn. Không dừng lại ở nhận thức lý luận, đổi mới còn thể hiện bằng hành động thực tế và chính trong hành động mới bộc lộ một cách đầy đủ, chân thật đạo đức cách mạng, bảo đảm nói đi đôi với làm, đường lối, chủ trương được tổ chức thực hiện có hiệu quả. Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ khâu tổ chức thực hiện nghị quyết, gắn mỗi quyết sách chính trị với chương trình, kế hoạch, biện pháp và huy động, phân bổ nguồn lực thực thi hiệu quả.
Chỉnh đốn là uốn nắn, chấn chỉnh, sửa sang, sắp đặt lại cho quy củ, nền nếp, đúng trật tự, phép tắc; sàng lọc, loại bỏ những yếu tố thoái hóa, hư hỏng, biến chất; nhờ đó làm cho Đảng vững mạnh, trong sạch hơn. Chỉnh đốn Đảng được tiến hành toàn diện từ tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tổ chức đến cán bộ. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, sau mỗi thắng lợi, Đảng ta đều tiến hành chỉnh đốn để tránh tư tưởng chủ quan, tự mãn, say sưa với thắng lợi, không lường được khó khăn phía trước, phòng ngừa bệnh “kiêu ngạo cộng sản”; những lúc cách mạng thoái trào thì càng phải chỉnh đốn nội bộ để xốc lại tinh thần, củng cố đội ngũ, kiện toàn tổ chức,... làm cho mỗi tổ chức đảng và đảng viên có thêm bản lĩnh, sức mạnh vượt qua khó khăn và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ. Trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, nguy cơ, thách thức bên trong và bên ngoài đan xen nhau, diễn biến phức tạp, đòi hỏi xây dựng Đảng phải gắn chặt với tăng cường chỉnh đốn Đảng. Những nhiệm vụ nổi lên cấp bách trong chỉnh đốn Đảng hiện nay là đấu tranh với tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; giữ nghiêm nguyên tắc, siết chặt kỷ cương, kỷ luật, từ kỷ luật chính trị, kỷ luật tổ chức đến kỷ luật phát ngôn; xử lý nghiêm mọi vi phạm nguyên tắc tổ chức, kỷ luật, tiến hành sàng lọc, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những trường hợp tha hóa, biến chất, làm cho Đảng vững mạnh hơn, trong sạch hơn.
Dưới ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, 93 năm qua, Đảng đã lãnh đạo dân tộc ta, nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên một sự nghiệp vĩ đại - sự nghiệp vì dân tộc trường tồn, nhân dân hạnh phúc, đất nước phát triển, vì lương tâm và phẩm giá con người. Thắng lợi đó là kết quả hội tụ của nhiều nhân tố, mà trước hết và trên hết là phẩm cách của Đảng Cộng sản Việt Nam - một Đảng cách mạng hiện thân “là đạo đức, là văn minh” như Bác Hồ đã đúc kết./.
PGS, TS. ĐOÀN MINH HUẤN
Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
---------------------------
(1) Xem: Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (tháng 3-1989), trong: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 49 (1988 - 1989), tr. 591
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 291
(3) Bốn nhiệm vụ của đảng viên là:
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Gửi phản hồi
In bài viết