Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đạị biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng _Ảnh: TTXVN
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng
Sinh thời, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học luôn nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ. Đó là biểu hiện của sự lãnh đạo tập thể, bảo đảm chủ trương, đường lối của Đảng luôn được bàn bạc, thảo luận và quyết định theo đa số; đồng thời, tập trung được kinh nghiệm và ý kiến của đội ngũ đảng viên, hạn chế được biểu hiện chủ quan, duy ý chí. Kiên trì nguyên tắc tập trung dân chủ giúp nâng cao tính tích cực, sáng tạo của đội ngũ đảng viên, để các quyết định của Đảng trở thành sản phẩm trí tuệ và thể hiện ý chí thống nhất của toàn Đảng. V.I. Lê-nin từng khẳng định: “Các đảng gia nhập Quốc tế cộng sản phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ..., đảng cộng sản chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình nếu đảng được tổ chức một cách tập trung nhất, nếu trong đảng có một kỷ luật sắt, gần giống như kỷ luật quân sự, và nếu Trung ương đảng là một cơ quan có uy tín mạnh mẽ, có quyền lực rộng rãi, được toàn thể đảng viên tin cậy”(1). V.I. Lê-nin nhấn mạnh, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức đúng đắn của đảng vô sản kiểu mới, là nguyên tắc phân biệt chính đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân với các đảng phái khác. Theo đó, “chế độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và, mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ”(2); “Không có gì sai lầm bằng việc lẫn lộn chế độ tập trung dân chủ với chủ nghĩa quan liêu và với lối rập khuôn máy móc”(3).
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhiều lần nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ. Người chỉ rõ: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”(4); “Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là vừa dân chủ vừa tập trung”(5); “Từ tỉnh, huyện đến chi bộ, phải làm đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách. Nội bộ phải thật đoàn kết. Mọi việc đều bàn bạc một cách dân chủ và tập thể”(6). Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn”; tuy nhiên, dân chủ phải gắn liền với tập trung, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Người nhấn mạnh: “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau... Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”(7). Nhận thức đúng và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, thống nhất cả về tư tưởng và hành động, để “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”(8).
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng 93 năm qua, Đảng ta luôn kiên trì nguyên tắc tập trung dân chủ và coi đây là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, chỉ đạo toàn bộ việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, đồng thời phát huy dân chủ trong Đảng. Kiên trì thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ xuất phát từ bản chất của Đảng, từ yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử của Đảng và từ kinh nghiệm của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế. Đảng ta nhiều lần khẳng định: “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(9).
Điều lệ Đảng quy định: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”(10). Nguyên tắc tập trung dân chủ bao gồm những nội dung cơ bản sau: 1- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; 2- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc; cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên; giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ; 3- Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình; 4- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng; thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương; 5- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành; trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình; đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng; cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số; 6- Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên(11).
Quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ là yêu cầu đặc biệt quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo đảm cho Đảng luôn là một tổ chức thống nhất, đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao. Việc xem nhẹ, thực hiện không đúng, không nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ làm tổn hại đến uy tín, sức mạnh của Đảng; là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tệ quan liêu, độc đoán, coi thường tập thể và hiện tượng phân tán, cục bộ, vô kỷ luật.
Nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ thời gian qua
Công tác cán bộ là toàn bộ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của cấp ủy, tổ chức đảng và các cơ quan trong hệ thống chính trị theo chủ trương, nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định của Đảng về các nội dung: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử; luân chuyển, điều động, bố trí, sử dụng, miễn nhiệm, cho từ chức đối với cán bộ; thực hiện chính sách, khen thưởng, kỷ luật cán bộ; kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực để xây dựng đội ngũ cán bộ có số lượng và cơ cấu hợp lý, chất lượng không ngừng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Trong các giai đoạn lịch sử, do yêu cầu lịch sử và nhiệm vụ chính trị của Đảng khác nhau, nên công tác cán bộ cũng mang nội dung, đặc điểm khác nhau.
Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư và đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương gặp mặt cán bộ cấp cao được phân công, bổ nhiệm, luân chuyển trong năm 2022 (tháng 2-2023) _Ảnh: TTXVN
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Trong công tác cán bộ, phải “bảo đảm thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định, đồng thời phát huy đầy đủ trách nhiệm cá nhân, trước hết là người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ”(12). Việc quán triệt, thực hiện nghiêm nguyên tắc này là nhân tố quan trọng bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy trách nhiệm của thành viên tập thể lãnh đạo, người đứng đầu các cấp; bảo đảm công tác cán bộ được thực hiện dân chủ, khách quan, công tâm, minh bạch, lựa chọn đúng người có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín theo tiêu chuẩn, điều kiện quy định.
Trong thời kỳ đổi mới, quá trình không ngừng hoàn thiện thể chế gắn với thành tựu của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng và những yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới đã tạo điều kiện thuận lợi để triển khai hiệu quả công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Bám sát các nguyên tắc được xác định trong Cương lĩnh và Điều lệ Đảng và xuất phát từ tình hình thực tế, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung chỉ đạo nghiên cứu, ban hành nhiều nghị quyết, quy định, quy chế nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ. Thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của tập thể và thành viên lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong công tác cán bộ được quy định ngày càng rõ hơn(13). Hệ thống văn bản về công tác cán bộ được xây dựng, rà soát, bổ sung, từng bước hoàn thiện(14), bảo đảm sự lãnh đạo tập trung của Đảng; đồng thời, tiếp tục đề cao trách nhiệm, phát huy dân chủ trong công tác cán bộ.
Quán triệt và thực hiện nghiêm các nghị quyết, quy định, quy chế của Đảng, công tác cán bộ trong những năm qua tiếp tục có nhiều đổi mới, ngày càng khoa học, chặt chẽ, đi vào nền nếp. Quy trình công tác cán bộ được triển khai nghiêm túc, đúng quy định, bảo đảm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ; đồng thời, phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tập thể lãnh đạo và của người đứng đầu. Đại hội XIII của Đảng khẳng định, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt; trách nhiệm của cấp ủy, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, được đề cao; phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng; “các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng được quy định trong Điều lệ Đảng đã cơ bản bảo đảm tính bao quát, toàn diện, đầy đủ và phù hợp...; các nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng quy định trong Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của Trung ương đã được các cấp ủy, tổ chức đảng tuân thủ và thực hiện nghiêm túc”(15).
Nhờ kiên trì nguyên tắc tập trung dân chủ, các khâu trong công tác cán bộ được tiến hành nghiêm túc, chặt chẽ, công khai, minh bạch; thực hiện thí điểm đổi mới cách tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý thông qua thi tuyển, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, chặt chẽ hơn. Đa số cán bộ được bầu và bổ nhiệm đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định, phát huy tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, được cán bộ, đảng viên và nhân dân tín nhiệm. Việc tuyển chọn, quản lý, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng bàn bạc, thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số. Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý được tiến hành định kỳ, dần đi vào nền nếp, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Đảng ta cũng nghiêm túc chỉ rõ: “Thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số tổ chức đảng còn chưa nghiêm, thậm chí vi phạm”(16); “Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong tổ chức và hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng có nội dung chưa được quy định cụ thể phù hợp với tình hình thực tế, nhất là về mối quan hệ, trách nhiệm giữa tập thể, cá nhân và người đứng đầu, nên khó xác định trách nhiệm của cá nhân khi xảy ra sai phạm”(17). Nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu về công tác cán bộ trong tình hình mới chưa đầy đủ, sâu sắc, toàn diện; việc quản lý cán bộ còn bộc lộ nhiều sơ hở, bị lợi dụng, tính đảng của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý còn yếu kém. Đánh giá cán bộ trước khi bổ nhiệm ở nhiều nơi còn hạn chế, chưa phản ánh thực chất; một số trường hợp mới được bổ nhiệm đã bộc lộ yếu kém, một số có vi phạm khuyết điểm, thậm chí bị xử lý kỷ luật, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược. Việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử có nơi còn biểu hiện cục bộ, khép kín; đúng quy trình, nhưng chưa trúng người, đúng việc. Vẫn còn hiện tượng lợi dụng tập thể để thực hiện ý chí của người đứng đầu; hiện tượng nể nang, né tránh, ngại va chạm, đoàn kết một chiều trong bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử còn tồn tại. Một số cấp ủy, tổ chức đảng để xảy ra những sai phạm khuyết điểm kéo dài, mất đoàn kết nội bộ, gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong các nhiệm kỳ vừa qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp đã kiểm tra, xử lý kỷ luật nhiều cán bộ, trong đó một số tập thể, cán bộ chủ chốt đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc của cấp ủy.
Các đại biểu biểu quyết thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bình Gia (tỉnh Lạng Sơn), nhiệm kỳ 2020 - 2025 _Ảnh: TTXVN
Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện cơ chế thực thi nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ của Đảng, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới
Đại hội XIII của Đảng đã xác định nhiều nhiệm vụ, giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, đề cao trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ. Thời gian tới, để tiếp tục hoàn thiện cơ chế thực thi nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ của Đảng, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức, quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ. Quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo, các quy định, quy chế của Đảng về công tác cán bộ trong tình hình mới; thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Những vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cho thôi giữ chức, đình chỉ chức vụ, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật cán bộ phải do cấp ủy, tổ chức đảng và tập thể lãnh đạo có thẩm quyền thảo luận dân chủ, quyết định theo đa số. Trường hợp ý kiến của người đứng đầu và ý kiến của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị có sự khác nhau thì phải báo cáo lên cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị có trách nhiệm đề xuất và tổ chức thực hiện quyết định của tập thể về công tác cán bộ trong phạm vi được phân công phụ trách. Cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghị quyết, quyết định của cấp ủy, tổ chức đảng; cấp ủy cấp dưới phải chấp hành quyết định của cấp ủy cấp trên trong công tác cán bộ.
Thứ hai, tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản của Đảng về công tác cán bộ. Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Tiếp tục hoàn thiện quy định, quy chế về tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí, cơ chế đánh giá cán bộ; lấy phiếu tín nhiệm định kỳ hoặc đột xuất; cụ thể hóa cơ chế nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng; bổ sung các quy định có liên quan, nâng cao tính cạnh tranh, công khai, minh bạch trong tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, cụ thể là việc ứng viên trước khi bổ nhiệm phải trình bày chương trình hành động và cam kết thực hiện; rà soát, hoàn thiện, đổi mới công tác bầu cử trong Đảng, thực hiện bầu cử có số dư; mở rộng thí điểm thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ, sở, phòng. Thực hiện một số chủ trương thí điểm, như người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình; bí thư cấp ủy giới thiệu để bầu ủy viên ban thường vụ theo một quy trình nhất định, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình; giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về quyết định của mình... Trên cơ sở các quy định, quy chế của Trung ương, các cấp ủy, tổ chức đảng cần cụ thể hóa, ban hành các quy chế, quy định về công tác cán bộ, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, phát huy dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ.
Thứ ba, thường xuyên rà soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm quy chế làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng. Xây dựng, hoàn thiện và thực hiện tốt quy chế làm việc của cấp ủy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, phát huy tốt trách nhiệm cá nhân của cấp ủy viên, nhất là người đứng đầu và giải quyết tốt các mối quan hệ của cấp ủy trong công tác cán bộ. Căn cứ quy định, quy chế của Trung ương, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc để phù hợp với tình hình thực tế; quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của tập thể và cá nhân cấp ủy viên, các mối quan hệ công tác giữa cấp ủy cơ sở với thường trực, ban thường vụ cấp ủy, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy cấp trên; với thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Tổ chức thực hiện nghiêm quy chế làm việc sẽ góp phần tạo sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ về các nguyên tắc sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong công tác cán bộ. Gắn việc kiểm điểm tập thể, cá nhân về vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị với công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ; kiểm điểm sâu sắc việc chấp hành quy chế làm việc, rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện quy chế, xem việc xây dựng và thực hiện tốt quy chế là một trong những biện pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tăng cường đoàn kết, thống nhất của tổ chức đảng.
Thứ tư, phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, thành viên tập thể lãnh đạo và bí thư cấp ủy trong công tác cán bộ. Để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, bí thư cấp ủy, tập thể lãnh đạo các địa phương, cơ quan, đơn vị cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các nguyên tắc, quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ; thường xuyên tự kiểm tra, kịp thời chấn chỉnh những sai sót và chịu trách nhiệm về những hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ thuộc phạm vi, thẩm quyền, trách nhiệm được giao. Thành viên tập thể lãnh đạo phải thực hiện đúng, đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm của mình trong công tác cán bộ; phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác, trung thực đến cấp có thẩm quyền những nội dung có liên quan đến nhân sự mà cá nhân được phân công theo dõi, quản lý; thể hiện rõ chính kiến và chịu trách nhiệm về ý kiến của mình, được bảo lưu ý kiến và chịu trách nhiệm cá nhân trong việc đề xuất nhân sự và trong việc nhận xét, đánh giá, xác nhận hồ sơ, lý lịch, các giấy tờ có liên quan của nhân sự thuộc thẩm quyền phụ trách; chịu trách nhiệm khi để xảy ra tiêu cực, sai phạm trong công tác cán bộ ở địa phương, cơ quan, đơn vị, lĩnh vực thuộc thẩm quyền được giao quản lý, phụ trách. Phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của bí thư cấp ủy, người đứng đầu trong chỉ đạo thực hiện nghiêm nguyên tắc, quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ; thực hiện công khai, minh bạch các nội dung về công tác cán bộ theo quy định; chỉ đạo chuẩn bị đầy đủ hồ sơ nhân sự và cung cấp cho các thành viên liên quan theo quy chế làm việc của cấp ủy; kịp thời chỉ đạo thực hiện quy trình nhân sự; dành thời gian thỏa đáng để tập thể thảo luận thật sự dân chủ; không vận động, thao túng, áp đặt ý kiến chủ quan, tác động, gây nhiễu thông tin, gây sức ép để người khác nhận xét, đánh giá, biểu quyết, bỏ phiếu, quyết định nhân sự theo ý mình; kết luận đầy đủ, chính xác, trung thực, khách quan những nội dung thảo luận; báo cáo kịp thời, đầy đủ, trung thực, khách quan, đúng bản chất ý kiến của tập thể lãnh đạo với cấp có thẩm quyền, nhất là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau về công tác cán bộ.
Thứ năm, tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ. Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp cần coi trọng việc xây dựng, thực hiện tốt chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát công tác cán bộ và việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất; theo chuyên đề, chuyên ngành; của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát cấp trên; coi trọng cả cảnh báo, phòng ngừa và xử lý sai phạm. Chú trọng kiểm tra, giám sát các cơ quan tham mưu, giúp việc, các cơ quan cấp dưới và cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý trong thực hiện nhiệm vụ về công tác cán bộ. Kịp thời kiểm tra, xác minh, kết luận những vấn đề mới phát sinh trong công tác cán bộ ở các cấp, các ngành. Hủy bỏ, thu hồi các quyết định không đúng về công tác cán bộ; xử lý kịp thời, nghiêm minh tập thể, cá nhân vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong công tác cán bộ. Thực hiện công khai, minh bạch các tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự; cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu. Phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử; vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ. Tăng cường cơ chế chất vấn, giải trình trong công tác cán bộ. Nghiên cứu mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý một cách phù hợp. Hoàn thiện cơ chế tiếp nhận và xử lý kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của nhân dân gửi đến cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị và qua các phương tiện thông tin đại chúng với các hình thức phù hợp, hiệu quả./.
MAI VĂN CHÍNH
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương
---------------------------
(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 41, tr. 253
(2), (3) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 36, tr. 185, 186
(4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 8, tr. 275, 263 - 264
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 438
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr . 620
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 17
(9) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 830
(10) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua ngày 19 tháng 1 năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 5
(11) Xem: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua ngày 19 tháng 1 năm 2011), Sđd, tr. 17 - 19
(12) Quy định số 80-QĐ/TW, ngày 18-8-2022, của Bộ Chính trị, “Về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử”.
(13) Như: Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị, “Ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”; Quy định số 42-QĐ/TW, ngày 3-10-2016, của Ban Bí thư, “Về nhiệm vụ và quan hệ công tác của thường trực tỉnh ủy, thành ủy”; Quy định số 04-QĐi/TW, ngày 25-7-2018, của Ban Bí thư, “Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc tỉnh ủy, thành ủy”; Quyết định số 162-QĐ/TW, ngày 5-12-2018, của Ban Bí thư, “Về việc ban hành Quy chế làm việc mẫu của đảng đoàn, ban cán sự đảng trực thuộc Trung ương”; Quy định số 10-QĐi/TW, ngày 12-12-2018, của Bộ Chính trị, về “Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”; Quyết định số 168-QĐ/TW, ngày 28-12-2018, của Ban Bí thư, “Về việc ban hành Quy chế làm việc mẫu của tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương”; Quy định số 202-QĐ/TW, ngày 2-8-2019, của Ban Bí thư, “Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp huyện”;...
(14) Quyết định số 244-QĐ/TW, ngày 9-6-2014, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng”; Quy định số 89-QĐ/TW, ngày 4-8-2017, của Bộ Chính trị, “Về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”; Kết luận số 24-KL/TW, ngày 15-12-2017, của Bộ Chính trị, “Về nguyên tắc điều động, phân công, bố trí công tác đối với cán bộ Trung ương luân chuyển”; Quy định số 132-QĐ/TW, ngày 8-3-2018, của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị”; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; Quy định số 179-QĐ/TW, ngày 25-2-2019, của Bộ Chính trị, “Về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ”; Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”; Quy định số 214-QĐ/TW, ngày 2-1-2020, của Bộ Chính trị, “Về khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”;...
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 267 – 268
(16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 90
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 273
Gửi phản hồi
In bài viết