Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cùng Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ trao đổi với các đại biểu tại Phiên chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội về nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực tòa án _Ảnh: TTXVN
Nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Xây dựng nhà nước pháp quyền là xu thế tất yếu của xã hội hiện đại, tùy thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia, dân tộc sẽ có một mô hình nhà nước pháp quyền cụ thể. Ở Việt Nam, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Tổng kết 35 năm đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta xác định: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãnh phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”(1). Đây là một trong mười hai định hướng lớn nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được khẳng định rõ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Sự khẳng định đó cho thấy, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tiến trình đổi mới toàn diện đất nước, hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả và phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Đây được xem là một trong những “mắt xích” quan trọng để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2030) và tầm nhìn đến kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2045).
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, nhận thức về nhà nước pháp quyền nói chung và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng chưa thống nhất. Các cơ quan nghiên cứu pháp luật và các chuyên gia pháp lý đầu ngành còn có những quan điểm khác nhau và khá đa dạng về nhà nước pháp quyền(2), nhưng nhìn chung đều thống nhất ở điểm chung của nhà nước pháp quyền, đó là: nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà là một phương thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước.
Lý thuyết và thực tiễn cho thấy, trong nhà nước pháp quyền, nhân dân là chủ thể đích thực của quyền lực nhà nước, nhân dân trao quyền lực cho nhà nước bằng cơ chế dân chủ và giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước theo nguyên tắc dân chủ. Vì thế, nhà nước pháp quyền là “biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ”(3), là trung tâm của hệ thống chính trị dân chủ. Các thành viên trong xã hội có quyền tham gia vào các công việc của nhà nước, cho nên, nhà nước pháp quyền phải gắn liền với một chế độ hợp hiến/chủ nghĩa hiến pháp (constitutionalism), một hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ, vì con người, nhằm bảo đảm toàn bộ tổ chức và hoạt động của nhà nước vận hành trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật và theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong xã hội hiện đại, muốn thực hành dân chủ, phát huy vai trò chủ thể nhân dân và xây dựng hệ thống chính trị dân chủ thì phải xây dựng nhà nước pháp quyền. Đó là phương thức chung mà thông qua đó công dân đạt tới xã hội dân chủ và khẳng định quyền làm chủ của mình một cách thực chất. Vì thế, nhà nước pháp quyền được nhìn nhận như “một phương thức thực hiện quyền lực, một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Điều đó có nghĩa là nhà nước pháp quyền gắn liền với một nền dân chủ, tuy không phải là một kiểu nhà nước được xác định theo lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, nhưng không thể xuất hiện trong một xã hội không có dân chủ” (4).
Từ nhận thức chung đó, GS, TSKH Đào Trí Úc và cộng sự mô tả Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với sáu đặc trưng cơ bản: 1- Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân; 2- Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp; 3- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ; 4- Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội; 5- Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân; 6- Nhà nước và xã hội do một đảng duy nhất lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam(5). Trong khi đó, GS, TS Nguyễn Duy Quý và PGS, TS Nguyễn Tất Viễn mô tả Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bảy đặc trưng cơ bản: 1- Là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; 2- Quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất trên cơ sở có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp; 3- Thừa nhận vị trí tối thượng của Hiến pháp và luật trong đời sống xã hội; tổ chức và hoạt động của Nhà nước thực hiện trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật; 4 - Trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân là mối quan hệ chủ đạo trong xã hội, thể hiện vai trò của một nhà nước “phục vụ”, đồng thời thể hiện trách nhiệm của công dân trước nhà nước và xã hội; 5- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa gắn với xã hội công dân định hướng xã hội chủ nghĩa; 6- Nhà nước bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh và có thiện chí các cam kết quốc tế; 7- Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo(6). Đại hội XI (2011) của Đảng đã đưa ra mô hình tổng thể về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”(7). Các quan điểm này đã và đang được thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, trong đó Hiến pháp năm 2013 đã hiến định các đặc trưng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 2, Điều 3, Điều 4, Điều 8,...) và tiếp tục được bổ sung, phát triển trong kỳ Đại hội XII (2016) và Đại hội XIII (2021): “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động”(8). Các đặc trưng cơ bản về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được tổng kết, đánh giá và khái quát một cách khá đa dạng, phong phú, trong đó nhà nước “lấy pháp luật làm cơ sở pháp lý thống nhất cho việc điều hành mọi hoạt động của nhà nước, của xã hội, của công dân, dùng pháp luật làm chuẩn mực để phân biệt tính hợp pháp và không hợp pháp; việc được làm và không được làm trong thi hành pháp luật của các cơ quan và cán bộ nhân viên nhà nước, trong việc tuân thủ pháp luật của công dân”(9), tuy nhà nước đề cao vai trò của pháp luật trong xã hội, nhưng không tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật; pháp luật phải thực sự tiến bộ, hiện đại, vì con người, vì sự phát triển bền vững.
Với những nhận thức chung đó về nhà nước pháp quyền đương đại, rõ ràng nhà nước pháp quyền hiện thực là thành tựu của văn minh nhân loại, là biểu hiện về trình độ phát triển cao của dân chủ, pháp luật và quản trị nhà nước, là phương thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước tối ưu, hiệu quả, mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của Hiến pháp, pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực nhân dân và vì sự văn minh, tiến bộ, phát triển con người và nhân loại.
Như thế, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng phục vụ cho yêu cầu bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, pháp luật, hạn chế sự tùy tiện của nhà nước, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, phát huy chủ quyền nhân dân và kiến tạo phát triển xã hội. Theo đó, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải luôn bảo đảm các đặc trưng: trước hết, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thứ hai, quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân, luôn thống nhất, được tổ chức khoa học, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; thứ ba, Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm, bảo vệ tốt quyền con người, quyền công dân; thứ tư, cơ quan lập pháp hoạt động chuyên nghiệp và hiệu quả; hoạt động của cơ quan hành pháp phải công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, hành động, kiến tạo phát triển, phục vụ tốt; cơ quan tư pháp liêm chính, độc lập trong xét xử; bảo đảm quyền tiếp cận công lý; thứ năm, hệ thống pháp luật dân chủ, văn minh, tiến bộ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; thứ sáu, văn hóa pháp lý, văn hóa pháp quyền luôn được coi trọng và phát huy sâu rộng; thứ bảy, Nhà nước thực hiện tốt các cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, pháp luật quốc tế.
Các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Thanh tra (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XV _Ảnh: TTXVN
Những định hướng xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra những định hướng lớn trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là: “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động”(10); “Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường”(11). Trên cơ sở đó, để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay cần tập trung vào những nội dung sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và cơ chế thực hiện pháp luật hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc “thượng tôn” Hiến pháp và pháp luật.
Hệ thống pháp luật Việt Nam cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng tăng cường tính dân chủ, công bằng, nhân đạo, hiện đại, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo; tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiến tạo phát triển; đa dạng hóa nguồn pháp luật; đơn giản hóa, giảm tầng nấc, loại hình văn bản trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, thu gọn đầu mối cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cùng với đó, Nhà nước cần tiếp tục cụ thể hóa các quyền hiến định của con người, của công dân và tổ chức bảo đảm, bảo vệ tốt quyền con người, quyền công dân trong thực tế. Trong đó, “tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp để sớm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(12) được xem là một trong các đột phá chiến lược để “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả” và có đủ “sức cạnh tranh quốc tế” nhằm thúc đẩy hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và mang lại hiệu quả cao ở nước ta.
Bên cạnh đó, “tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo...”(13), ngoài ra cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên phải luôn gương mẫu trong việc tuân thủ tinh thần “thượng tôn” Hiến pháp và pháp luật, kỷ cương phép nước và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thực hiện pháp luật; tập trung chỉ đạo quyết liệt và dành các nguồn lực thích đáng cho thực hiện pháp luật; hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành, áp dụng pháp luật, đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật; nâng cao năng lực tổ chức thi hành và áp dụng pháp luật của các cơ quan, tổ chức và đội ngũ cán bộ, công chức thực thi công vụ; hoàn thiện cơ chế pháp lý, đặc biệt là trình tự, thủ tục thi hành, áp dụng pháp luật.
Thứ hai, tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước khoa học, an toàn, hiệu lực, hiệu quả; hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo hướng thực chất, đạt hiệu quả cao.
Đại hội XIII của Đảng yêu cầu “xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền”(14) và “kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật”(15) nhằm thực hiện mục tiêu “nhốt quyền lực vào trong lồng thể chế và chính sách”, bên cạnh đó, tại Đại hội này Đảng ta lần đầu tiên yêu cầu “hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp”(16) làm cơ sở chính trị nhằm cụ thể hóa nội dung hiến định: “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” (Khoản 2, Điều 119 Hiến pháp năm 2013). Hơn nữa, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước phải đặt trong tổng thể kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị, tạo cơ chế chặt chẽ giữa kiểm soát quyền lực nhà nước với kiểm soát quyền lực chính trị trong Đảng, vì thế các cấp, các ngành phải “thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền”(17), nhằm kiểm soát tham nhũng.
Theo đó, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; hoàn thiện cơ chế thực thi quyền lực nhà nước, bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước; phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ trên cơ sở chức năng của mỗi quyền, tăng cường kiểm soát quyền lực bên trong mỗi quyền và giữa các quyền lực nhà nước; tiếp tục đổi mới quản trị quốc gia, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội, theo nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp, pháp luật, minh bạch, trách nhiệm giải trình, bảo đảm sự tham gia của người dân, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả, phát triển bao trùm và định hướng đồng thuận.
Thứ ba, hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các thiết chế nhà nước theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phân công chức năng, nhiệm vụ và phân cấp, phân quyền rõ ràng giữa các cấp quản lý, trong đó tập trung vào các nội dung sau:
Một là, Quốc hội tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động theo hướng chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, bảo đảm nguyên tắc pháp quyền trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao; hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do cơ quan dân cử bầu hoặc phê chuẩn; tăng hợp lý số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách, giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp, đặc biệt là đại biểu tham gia lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan hành chính ở địa phương; xây dựng Quốc hội số, tổ chức các kỳ họp Quốc hội trực tuyến.
Hai là, tiếp tục nghiên cứu để làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh; cụ thể hóa thẩm quyền của Chủ tịch nước - với tư cách là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại; tăng cường vai trò của Chủ tịch nước trong mối quan hệ với Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, như bổ sung thẩm quyền cho Chủ tịch nước trong việc đề nghị Quốc hội xem xét lại luật, bộ luật.
Ba là, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực; phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội, thực hiện quyền hành pháp; xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch; tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; tăng cường năng lực dự báo, phân tích và đề xuất chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành, giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương, bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành. Điều này khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong nhiều năm qua, đồng thời bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, không chấp nhận sự khu biệt, cục bộ địa phương, tự trị. Bên cạnh đó, tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả; nâng cao chất lượng dịch vụ công đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành pháp phục vụ, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, trong sạch, công khai, minh bạch và vững mạnh; “xây dựng và thực hiện chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số”(18), trong đó tập trung thúc đẩy việc xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng hướng tới cơ quan nhà nước “không giấy tờ”; hoàn thiện kết nối, liên thông giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp và các doanh nghiệp; hoàn thiện quy trình, thủ tục hành chính phù hợp với hoạt động của chính phủ số, cắt giảm tối đa giao dịch trực tiếp; cơ bản hoàn thành chuyển đổi số trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội...
Bốn là, xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, trong đó, “xây dựng các thiết chế tư pháp hiện đại, trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, dân chủ, nghiêm minh, tăng cường tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, ổn định”(19); tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; phòng ngừa và đấu tranh hiệu quả với hoạt động của tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật và các loại tranh chấp, khiếu kiện theo pháp luật nhằm “Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý của người dân và doanh nghiệp”(20); “Phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, các hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, bổ trợ tư pháp và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án”(21); đổi mới quản trị tư pháp theo hướng khắc phục tình trạng “hành chính hóa” trong quan hệ tố tụng giữa Tòa án các cấp và bảo đảm tính độc lập trong xét xử, như xây dựng thiết chế Hội đồng tư pháp quốc gia, tổ chức Đảng theo ngành dọc; triển khai đồng bộ, thông suốt Tòa án điện tử và xét xử trực tuyến.
Năm là, tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo luật định, trong đó hướng đến “xây dựng và vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”(22); phân định rõ ngân sách trung ương, ngân sách địa phương, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, nâng cao tính chủ động, tự chủ của ngân sách địa phương; gắn đổi mới tổ chức chính quyền địa phương với đổi mới hệ thống chính trị ở địa phương, đặc biệt là ở cấp cơ sở; “Sáp nhập hợp lý một số đơn vị hành chính cấp xã, huyện phù hợp với điều kiện, yêu cầu phát triển mới”(23).
Cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân, kiểm sát viên tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân _Nguồn: baovephapluat.vn
Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vừa “hồng”, vừa “chuyên”, đây là “công việc gốc”; “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”(24); “có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(25), từ đó tạo động lực cho đội ngũ cán bộ, công chức thực sự sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì dân, vì nước, vì sự phồn vinh của dân tộc. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cần chú trọng đến tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách, đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển; xây dựng cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, không còn uy tín với nhân dân; kiên trì xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm, củng cố đạo đức công vụ, đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập đi đôi với xử lý kịp thời, nghiêm minh những hành vi vi phạm để tiến tới cán bộ, công chức, viên chức không thể, không muốn và không dám tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
Thứ năm, đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” nhằm xác định “đúng vai”, đúng thẩm quyền để Đảng không bao biện, làm thay, lấn sân Nhà nước và ngược lại Đảng cũng không khoán trắng, buông lỏng lãnh đạo. Đặc biệt, chú trọng hoàn thiện cơ chế của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; nghiên cứu thiết lập các thiết chế mới để kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội. Bảo đảm các tổ chức của Đảng và đảng viên gương mẫu, đi đầu trong thực hành dân chủ và tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; mọi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; phân định và thể chế hóa nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trên từng lĩnh vực và cấp chính quyền, nhất là đối với quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thứ sáu, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực pháp luật, nhất là nhân lực chất lượng cao, có bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, quan tâm xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành về pháp luật, đội ngũ luật sư giỏi, đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Thứ bảy, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các đặc trưng cơ bản, qua đó tạo sự đồng thuận, thống nhất trong nhận thức và hành động của cấp ủy, chính quyền các cấp, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn Việt Nam sẽ phát huy tối đa các nguồn lực của đất nước phục vụ yêu cầu xây dựng đất nước Việt Nam phồn thịnh, hạnh phúc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045./.
PGS, TS TRƯƠNG HỒ HẢI - TS ĐẶNG VIẾT ĐẠT
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Học viện Chính trị khu vực IV
---------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 118
(2) Như: 1- Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp cho rằng: “Nhà nước pháp quyền là một nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và quản lý bản thân mình cũng bằng pháp luật, bộ máy nhà nước phải tự đặt mình dưới pháp luật”; 2- GS, TSKH Đào Trí Úc cho rằng: “Nhà nước pháp quyền trên bình diện học thuyết, quan niệm, tư tưởng thì phải được hiểu như là những đòi hỏi về dân chủ và về phương thức thực hiện quyền lực”; “Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ chức quyền lực chính trị. Đó là yếu tố không thể thiếu được khi nói đến nhà nước pháp quyền”; 3- GS, TS Lê Minh Tâm cho rằng: Nhà nước pháp quyền không phải là kiểu nhà nước mà là một hình thức nhà nước mà ở đó, bên cạnh những đặc điểm chung nó còn những đặc điểm riêng, khái niệm nhà nước pháp quyền còn được hiểu trên cả hai bình diện: (i) nó phản ánh những đặc điểm chung của nhà nước với tư cách là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị; (ii) nó phản ánh những đặc điểm riêng của nhà nước đặt trong mối quan hệ khách quan giữa nhà nước - pháp luật - xã hội công dân; 4- GS, TS Nguyễn Đăng Dung cho rằng: nhà nước pháp quyền là một hình thức nhà nước vì nó có cách thực tổ chức và hoạt động đối nghịch với các nhà nước độc tài, chuyên chế; đối nghịch với hình thức nhà nước được tổ chức theo phương pháp nhân trị và cũng đối nghịch với hình thức nhà nước được tổ chức theo pháp trị; 5- GS, TS Nguyễn Duy Quý và PGS, TS Nguyễn Tất Viễn khẳng định: “Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước tương ứng với một hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp cũng không phải là một hình thức tổ chức nhà nước đã tồn tại trong lịch sử từ trước (nhà nước vương quyền, nhà nước thần quyền), mà thực chất là phương thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước”...
(3) Trần Đình Hoan: Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam giai đoạn 2005 - 2020, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 48
(4) Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - Lý luận và thực tiễn, Sđd, tr. 154
(5) Đào Trí Úc (Chủ biên): Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 233 - 315
(6) Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - Lý luận và thực tiễn, Sđd, tr. 158 - 173
(7) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 85
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 284
(9) Viện Khoa học Pháp lý: Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 350
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 284
(11), (12), (13), (14), (15), (16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 285, 44, 53, 174 - 175, 203, 176
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 187 - 188
(18), (19), (20), (21) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 148, 149, 149, 149 - 150
(22), (23) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 178, 127 - 128
(24), (25) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 178, 179
Gửi phản hồi
In bài viết