Then là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Hiện nay, xu thế hội nhập giữa các quốc gia ngày càng mở rộng, năng động; quan hệ sản xuất hàng hóa, trao đổi bán mua theo cơ chế thị trường diễn ra ngày càng phong phú; sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc, các vùng miền theo đó cũng ngày càng đa dạng, trong đó có rất nhiều chất tinh túy, nhưng cũng không ít chất hỗn tạp... Khi ở đâu đó, trong mỗi cá thể “chủ nghĩa trọng tiền” trỗi dậy thường làm lu mờ sự “trọng tình”; lu mờ cái chân, thiện, mỹ; cái chất nhân hậu, tình thương yêu con người.
Mục tiêu xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đòi hỏi ở sự phát triển toàn diện của con người, trong đó các giá trị đạo đức, nhân văn luôn là nền tảng; động lực, là bệ đỡ cho sự phát triển. Thiết nghĩ, di sản hát Then tính tẩu các dân tộc Tày, Thái, Nùng cũng là thứ vũ khí tinh thần góp phần tạo ra những nét đẹp văn hóa cho mỗi con người. Với góc nhìn của người sưu tầm, phiên âm, dịch nghĩa, nghiên cứu các cung Then cổ Tuyên Quang; được thưởng thức trực tiếp cách diễn xướng của các nghệ nhân Then trong nhiều nghi lễ tín ngưỡng; tôi nhận thấy tính nhân văn trong Then vô cùng phong phú, sâu sắc. Ở đó ta bắt gặp các mối quan hệ giữa các cá thể, các cộng đồng người với người; mối quan hệ giữa người với thiên nhiên. Trong các mối quan hệ ấy, xuyên suốt là đề cao đạo đức trong sáng, lối sống thủy chung, nền nếp, trên dưới rõ ràng.
Mượn cảnh để nói tình, mượn sự vật nói hộ tâm trạng là cách nói của các nghệ nhân xưa khi muốn thổ lộ, ngỏ lời tình yêu. Mô tuyp này thể hiện khá phổ biến trong các cung Then. Các tích truyện dù nói về ong ve, hoa quả, trầu cau, chim thú, nắng mưa... thì ẩn bên trong nó có bóng hình với bao nghĩ suy của con người bằng sự sẻ chia cho nhau ở mọi cảnh ngộ, mọi trạng thái tình cảm, với nhiều cung bậc khác nhau. Chẳng hạn: Trên đường dẫn lễ lên Mường Thiên và từ Mường Thiên về trần gian, quân Then đi đến đâu cũng được gặp các chùa tai, khao bang, noọng nhí, cười chua, dương nga, kình châm, tiên nàng... (các danh từ chỉ gái đẹp trong Then cổ). Mỗi lần gặp nhau như thế dù không lâu nhưng cũng thổ lộ được mối tình da diết. Họ xin nhau miếng trầu, tặng nhau bông hoa. Khi xa nhau thì tâm trạng buồn nhớ, ước mong ngày gặp lại: Khi vui sao khéo dồn những vui. Khi buồn sao khéo sui buồn bã; Bây giờ cách hai ngả biệt ly; Tiên hãy ở anh đi việc vội... hoặc... Chẳng thương nhớ sao hay tìm đến; Chẳng nên gì cũng tiếng ngày xưa; Tiên nữ nàng mỉm cười không nói; Cơi trầu đặt trước mặt mời khuyên.
Cung Then vượt biển (khảm hải) có chi tiết nói về sự âu lo, buồn nhớ giữa chàng thuông (phu thuyền) và người vợ ở nhà. Và, họ dặn dò nhau như một sự cam kết: Thuyền đi, thuyền khi nào về bến; Sông nước là hiểm nghèo lắm thay; Được thấy gái nhiều nơi xinh đẹp; Thê thiếp người thiên hạ đi về; Lỗi lầm người ta giết mất thân... Hai cung Then Mua trâu và Lùa bắn hươu nai tế khuông có đoạn nói về tình mẫu tử thật da diết; Mẹ con ta lìa nhau bây giờ; Xa nhau chẳng khi nào trở lại; Mẹ khóc con nhỏ cũng khóc lăn; Của súc vật biết thương biết nhớ...
Vẻ đẹp phụ nữ Tày. Ảnh: Khánh Dương
Then cám cảnh trước những thân phận rủi ro, thiệt thòi nhất là những đứa trẻ mồ côi mẹ, cảnh dì ghẻ con chồng. Sự tích con đom đóm kể rằng: Khi mẹ đẻ còn sống, đom đóm đi làm việc theo mẹ, em chẳng bao giờ phải làm đến tối. Nay có mẹ kế, mẹ bắt làm việc suốt ngày, đã vậy mẹ còn ép khi trời tối cũng phải đốt đuốc gài vào sau lưng để làm. Vì thế, em đã hóa kiếp thành con đom đóm, sâm sẩm tối em phải tỏa đốm sáng lập lòe đằng đuôi: Em đi làm gì tối hỡi em? Đom đóm lên tiếng vọng trả lời: Mẹ tôi lên Thiên Nhan cửa bioóc (cửa hoa) Tôi mồ côi nhiều năm, lâu ngày; Bố tôi lấy vợ sau kế mẫu; Đi với bà khác mặc bỏ tôi; Làm việc theo mẹ đẻ đâu tối; Làm việc theo mẹ kế cực thân; Thắp lửa đeo sau lưng đến chết; Ai mồ côi thương thảm như tôi; Thiên nhiên trong Then thật tươi đẹp. Từng cung đường, cả đường thủy và đường bộ, mọi sự vật, hiện tượng quân Then bắt gặp đều được miêu tả như những bức tranh khiến người nghe như trông thấy, sờ được. Núi non điệp trùng, hoang dã, vách đá hiểm trở; tiếng chim, muông thú, ong, ve, rộn ràng như bản hòa tấu (cửa thần thế, cửa mồ mả, cửa táo quân, tam bảo, phủ thanh lâm, phủ chúa tạng Then tính, lập phủ đẳm tiên, phủ bụt già Then quạt...); trăm loại hoa khoe sắc đẹp, trăm loài chim khoe giọng hót hay (bách hoa trên đường, bách điểu tranh công); sông biển lúc êm trôi, phẳng lặng, lúc sóng nổi gầm rú mịt mùng (khảm hải). Quang cảnh mường trời lộng lẫy, vườn ruộng, ao cá, cánh đồng, ngòi khe, nhà cửa thật trù phú (vào cửa Ngọc Hoàng).
Then đề cao đức tính lao động cần cù, dũng cảm. Đoàn quân thuông (phu chèo thuyền) vượt bao ghềnh thác, bão tố, sóng dồn đầy hiểm nguy vẫn vững tay chèo đưa được đoàn thuyền chở lễ vật lên Mường thiên an toàn (khảm hải...). Không khí làm việc khẩn trương, tấp nập của các phu làm đường, thợ mộc, thợ rèn, thợ khai thác gỗ (các cung lập phủ; rèn dao, rìu, cuốc, xẻng mở đường,...).
Then phản ánh khả năng sáng tạo, khôn khéo mưu trí và tài hoa của con người (mạng cỗ trước mặt vua, gọi thuông mạng tẻo, đệm; đánh cờ, cưỡi ngựa bắn cung trước mặt vua, mo canh nước biển, cây khuông khắc, vật Da Dưn, vật hai cháu Da Dưn...).
Then phê phán những thói hư, tật xấu trong mối quan hệ giữa những con người với con người. Phê phán những người vợ lười lao động, chê những người chồng lười nhác, phàm tục, vũ phu; chê những ông bố, bà mẹ tham giàu bắt con lấy chồng già; chuyện bắt phu chèo thuyền, khuôn vác đồ cống lễ bị đối xử hà khắc...
Từ một số minh họa trong các cung Then nêu trên, cho chúng ta thấy, tính nhân văn trong Then là hồn cốt trường tồn. Vì lẽ đó then thật xứng đáng là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Gửi phản hồi
In bài viết