Bài 3: Dân thụ hưởng và những bài học quan trọng

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NHỮNG TẤM LÒNG VÀNG

“Tiếng thơm” tự nguyện hiến hàng nghìn mét vuông đất trồng keo để xã, thôn làm đường bê tông của đảng viên người dân tộc Nùng Dương Văn Páo, Phó Hiệu trưởng trường THPT Trung Sơn, xã Trung Sơn (Yên Sơn) như giục giã đôi chân của chúng tôi.

Người dân tộc Mông, Nùng, Tày ở hai thôn Làng Chạp, xã Trung Sơn và thôn Làng Phát của xã Kim Quan (Yên Sơn) chẳng bao giờ nghĩ con đường mòn bằng đất vắt qua sườn núi cheo leo nối liền hai thôn của hai xã giờ đây lại là con đường bê tông phẳng phiu, dễ dàng thông thương đến vậy.

Đường trục xã Kim Quan (Yên Sơn) được nhân dân hiến đất.

Khi cấp ủy, chính quyền hai xã Trung Sơn và Kim Quan có chủ trương vận động nhân dân làm tuyến đường bê tông có chiều rộng 5 mét nối liền hai thôn Làng Phát và Làng Chạp của hai xã, khó khăn nhất là vận động 9 hộ dân có đất và cây trồng liên quan đến việc làm hai tuyến đường này hiến đất, giải phóng mặt bằng. Trong đó, chủ yếu là người dân tộc Mông. Biết được khó khăn này, đảng viên Dương Văn Páo đã tự nguyện và tiên phong hiến 1.000m2 đất trồng keo của gia đình để xã mở đường. Đảng viên Dương Văn Páo kể: “Mình hiến 1.000 m2 đất và 300 cây keo để xã, thôn mở đường. Từng đó có đáng kể gì so với cái lợi là nhân dân được đi lại dễ dàng. Mình nói với vợ: “Tôi là đảng viên, đảng viên thì phải gương mẫu”, nghe thấy vậy, vợ mình đồng tình ngay. Mình nói với cán bộ, các anh cứ đo đất làm đường, cần bao nhiêu đất, tôi hiến bấy nhiêu”.

Đảng viên Dương Văn Páo và con đường bê tông được mở rộng nhờ một phần đất do gia đình hiến.

Biết đảng viên Dương Văn Páo không chần chừ mà hiến ngay 1.000 m2 đất rừng và 300 cây keo đã 5 năm tuổi, anh Giàng Seo Páo, dân tộc Mông có đất rừng liền kề với nhà đảng viên Dương Văn Páo cũng đồng ý hiến 1.000m2 đất rừng để thôn, xã mở đường.

Anh Giàng Seo Páo bộc bạch: “Từ đầu tôi cũng băn khoăn, keo trên rừng đã 3 năm tuổi rồi. Nếu hiến đất thì diện tích đất hiến cũng nhiều. Nhưng thấy đảng viên Dương Văn Páo hiến rồi, mình không hiến thì làm sao thôn làm được đường bê tông cho dân mình đi. Nghĩ vậy nên mình không chần chừ nữa”. Từ khi rời Xín Mần, Hà Giang về Làng Chạp, xã Trung Sơn định cư, gia đình anh Páo và nhiều người Mông ở xóm Ngòi Kiêng, thôn Làng Chạp chủ yếu sinh sống bằng nghề trồng rừng. Nhờ có rừng, đường giao thông đi lại thuận tiện mà năm 2019, gia đình anh thoát nghèo. Từ tấm gương hiến hàng nghìn mét vuông đất của đảng viên, thầy giáo Dương Văn Páo, cấp ủy, chính quyền xã Trung Sơn còn vận động thêm 7 hộ gia đình là người Mông ở thôn Làng Chạp hiến 2.500m2 đất để mở đường.

 

Xuôi theo dòng sông Phó Đáy, chúng tôi tiếp tục tìm gặp đồng chí Triệu Văn Trường, dân tộc Tày, Bí thư chi bộ thôn Làng Nhà, xã Kim Quan (Yên Sơn). Khi xã Kim Quan thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, tiêu chí môi trường là một trong những tiêu chí khó thực hiện nhất. Huyện, xã chủ trương xây dựng khu xử lý rác thải tập trung tại thôn Làng Nhà. Khu xử lý rác thải này được xây dựng trên phần lớn diện tích đất trồng rừng của Bí thư chi bộ Triệu Văn Trường. Khi biết chủ trương này, chẳng cần đến cán bộ xã vận động, đồng chí Trường đã tự nguyện báo cáo với đảng ủy xin hiến 4.400m2 đất rừng để xã xây dựng khu xử lý rác thải tập trung. Khi đó, keo trên đất đã được 4 năm tuổi. Diện tích rừng này mỗi năm cho gia đình đồng chí Trường thu 120 triệu đồng sau khai thác.

Tấm gương hiến đất rừng của Bí thư chi bộ Triệu Văn Trường đã lan tỏa mạnh mẽ trong quần chúng nhân dân. Sau đó, trên địa bàn xã Kim Quan đã có 42 hộ hiến trên 8.200m2 đất để làm đường bê tông nông thôn, bê tông nội đồng. Bà Lý Thị Chấm, dân tộc Tày, người dân thôn Làng Nhà vừa qua đã hiến 300m2 đất ruộng hai vụ để thôn làm đường. Gia đình bà Chấm có 500m2 đất ruộng trồng hai vụ lúa và một vụ ngô. Khi thôn triển khai làm đường bê tông, bà đã tự nguyện hiến phần đất nhiều hơn cho thôn làm đường. Bà vui vẻ nói: “Đảng viên hiến đất, gia đình mình cũng hiến để thôn làm đường mà không lăn tăn gì cả. Có con đường bê tông mới, máy gặt, xe tải nhỏ đánh đến tận chân ruộng, lúa gặt xong không phải chở nhiều chuyến bằng xe máy mới về tới nhà được như trước”.

 

Bí thư chi bộ Triệu Văn Trường (ảnh trái, đứng bên trái) và bà Lý Thị Chấm bên con đường bê tông mới hoàn thành.

Về xã Minh Thanh (Sơn Dương), những tuyến đường bê tông hóa phẳng lỳ chạy uốn lượn qua những cánh đồng lúa thẳng tắp, những chiếc cầu khang trang bắc qua suối đã làm cho diện mạo của nơi đây như bừng lên một sức sống mới. Người dân giờ đây không còn phải lội bùn, tăng bo bằng xe máy, còng lưng gánh lúa qua suối, qua những con đường đất trơn trượt. Đồng chí Nguyễn Ngọc Sản, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã Minh Thanh cho biết, trong hai năm 2020 và 2021 này, xã thực hiện nhiều công trình hạ tầng nông thôn quan trọng như cầu tràn thôn Lê, cầu Đồng Voòng, thôn Cả; sửa chữa, nâng cấp tuyến đường huyện ĐH07 và ĐH18… Thực hiện các công trình này đã có 378 hộ dân tự nguyện hiến đất, giải phóng mặt bằng không có đền bù để nhà nước thi công. Với sự nêu gương, đi trước trong hiến đất của các đảng viên, công tác vận động nhân dân hiến đất đã nhận được sự đồng thuận cao. “Việc gì khó càng phải phát huy vai trò gương mẫu của đảng viên và càng sát dân thì sẽ vận động thành công” - Anh Sản khẳng định.

Ước mơ có một chiếc cầu bắc qua dòng suối Lê của hàng trăm hộ dân thôn Lê, xã Minh Thanh giờ đây đã trở thành hiện thực. Thôn Lê có 166 hộ dân tộc Tày sinh sống, thu nhập của người dân chủ yếu trông vào canh tác nông nghiệp. Bao năm nay, người dân phải lựa những chỗ nước nông, ít chảy xiết để lội bộ qua suối Lê sang bên kia suối để trồng lúa, thu hoạch. Máy cày, bừa, tuốt lúa…cũng phải vận chuyển thủ công bằng hình thức khuân vác sang chân ruộng.  Khi Nhà nước có chủ trương đầu tư cây cầu bắc qua suối, xã phải vận động một số hộ dân ở hai bên suối hiến đất ruộng. Trong đó có ruộng của gia đình đồng chí Nguyễn Đức Trọng, Phó Bí thư chi bộ thôn Lê. Biết đây là mong mỏi bao năm của nhân dân, đồng chí Trọng đã tự nguyện hiến gần 300m2 đất ruộng để Nhà nước xây cầu. Tiếp đó, đồng chí Trọng còn vận động hộ anh Nguyễn Văn Chuyền cũng hiến gần 300m2 đất ruộng để làm cầu. Bây giờ cây cầu tràn liên hợp dài trên 37 mét đã hoàn thành, thỏa lòng mong ước bấy lâu của người dân.

Cầu tràn qua suối Lê, xã Minh Thanh (Sơn Dương).

Đang là mùa mưa nên con đường đến thôn Cầu Cao 2, xã Bạch Xa (Hàm Yên) trở nên khó khăn. Câu chuyện đảng viên Nguyễn Văn Chu, dân tộc Dao, chi bộ thôn Cầu Cao 2 hiến 1.036m2 đất để xây dựng lớp học mầm non khiến nhiều người nể phục và lan xa. Diện tích đất hiến của đảng viên Nguyễn Văn Chu trước đây trồng nhiều loại cây ăn quả như vải, nhãn, hồng xiêm, trám và hơn 6 ha chè cành, mỗi năm cho gia đình anh thu nhập trên 50 triệu đồng. Đảng viên Nguyễn Văn Chu cho biết: “Muốn nhân dân tin và làm theo thì đảng viên phải làm trước. Đó là lý do mà tôi hiến đất xây lớp học”. Không chỉ có vậy, vừa qua, đảng viên Chu còn hiến trên 200m2 đất để thôn xây dựng nhà văn hóa. Không chỉ có tấm gương tiên phong hiến đất của đảng viên Chu, ở nhiều thôn của xã Bạch Xa, đảng viên cũng là những người tiên phong trong hiến đất để nhân dân làm theo, tiêu biểu như đảng viên Đặng Văn Bách, chi bộ thôn Ngòi Nung hiến 600m2 đất để làm đường bê tông, đảng viên Triệu Tài Phòng, Phùng Văn Nhất, chi bộ thôn Nà Quan đều hiến 400m2 đất để làm nhà văn hóa thôn.
 

Người nông dân vốn nặng tình với mảnh đất, thửa ruộng của mình, yêu đất như yêu chính cuộc sống của mình. Nhưng vì lợi ích chung, nhiều đảng viên sẵn sàng hiến đất ở, đất vườn, đất rừng, đất ruộng để làm đường, làm cầu, xây dựng các công trình phúc lợi mà không đòi hỏi một quyền lợi nào. Chính sự tiên phong. gương mẫu của đảng viên trong hiến đất để xây dựng các công trình hạ tầng nông thôn đã trở thành tấm gương sống động lan tỏa, tạo niềm tin của quần chúng nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, từ đó biến thành hành động thực tế thúc đẩy thực hiện hiệu quả các phong trào thi đua.

 

THẮNG LỢI NHỜ SỨC DÂN

Tác phong gần dân, sâu sát với thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo từ tỉnh đến cơ sở đã tạo nên sự đồng thuận cao của nhân dân, đưa các nghị quyết của Đảng vào thực tế một cách nhanh chóng. Sức mạnh to lớn trong nhân dân được khơi dậy tạo thành nguồn lực nội sinh để Tuyên Quang thực hiện hiệu quả nhiều nghị quyết, chương trình, đề án lớn, có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh Tuyên Quang phát triển như: chương trình mục tiêu xây dựng nông thôn mới, Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 22-5-2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa XVI về kiên cố hóa kênh mương, bê tông hóa đường giao thông nội đồng và vùng sản xuất hàng hóa, xây dựng nhà văn hóa thôn, bản, tổ nhân dân gắn với sân thể thao và khuôn viên trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2016 – 2020; Đề án bê tông hóa đường giao thông nông thôn và xây dựng cầu trên đường giao thông nông thôn, giải phóng mặt bằng xây dựng các công trình, dự án hạ tầng trọng điểm trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang…Trong giai đoạn 2016 - 2020,  tỉnh Tuyên Quang đã bê tông hóa được 470,6/414,2 km, đạt 113,6% kế hoạch giai đoạn 2016-2020. 

 

Các nhà văn hóa được hoàn thành theo phương châm Nhà nước hỗ trợ cấu kiện, nhân dân hiến đất, góp ngày công.

Phát huy kết quả đạt được từ giai đoạn trước, ngay trong năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, tỉnh Tuyên Quang đã ban hành Đề án bê tông hóa đường giao thông nông thôn và xây dựng cầu trên đường giao thông nông thôn, giải phóng mặt bằng xây dựng các công trình, dự án hạ tầng trọng điểm trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Đề án được thực hiện theo phương châm “Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ”. Theo đề án này, trong giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Tuyên Quang phấn đấu xây dựng 1.080 km đường giao thông nông thôn, trong đó bê tông hóa 620km đường thôn và 460km đường nội đồng.  Đến đầu tháng 10, toàn tỉnh hoàn thành bê tông hóa 196,1/223 km đường bê tông nông thôn, đạt tỷ lệ 87,9% kế hoạch.

Riêng trong năm 2021, Tuyên Quang có kế hoạch hoàn thành 108 km đường bê tông nông thôn và 115 km đường giao thông nội đồng. Đến giữa tháng 9, các địa phương trong tỉnh đã hoàn thành thi công trên 182 km đường.

Không mấy người ở Yên Sở, Phúc Ninh (Yên Sơn) tưởng tượng được, có một ngày, con đường lên núi Đồi Vầu, Tràn Lầy lại thuận tiện đến thế. Vùng đồi này trước đây bà con chỉ tận dụng để trồng mía, trồng cỏ cho đàn gia súc… Mà cũng chỉ một vài nhà “đủ dũng cảm” vượt đường, vượt núi lên trồng. Con đường mòn bùn lầy, lại nằm xa khu dân cư, nên dù cả khu vực đất sản xuất trù phú, phù hợp với quy hoạch phát triển cây ăn quả của xã, nhưng người dân tính toán, có được mùa bội thu thì số tiền thuê người đến làm, vận chuyển vật tư phân bón, nông sản về cũng gấp nhiều lần số tiền bán sản phẩm. 

Những năm trước, một đoạn đường bê tông chiều dài gần 500 mét đã được người dân đóng góp ngày công hoàn thành theo Chương trình bê tông hóa đường giao thông nông thôn của tỉnh. Vùng đất đồi bỏ hoang ngày nào, giờ được đánh thức bởi màu xanh của na, cam và bưởi. Năm 2021, Yên Sở tiếp tục đăng ký hoàn thành thêm 520 mét đường, chiều rộng 3,5 mét, nối từ trung tâm thôn đến từng chân vườn. Nhìn từ trên cao, con đường mới hoàn thành đẹp đẽ, phẳng phiu như một dải lụa vắt ngang núi.


Theo Phó Chủ tịch UBND xã Phúc Ninh Nguyễn Mạnh Hà, những tuyến đường giao thông được bê tông, cứng hóa đã góp phần hình thành vùng chuyên canh cây ăn quả ở Phúc Ninh. Xã hiện có hơn 1.500 ha cây ăn quả, tập trung là bưởi, cam và na. Trong năm 2021, các thôn Quang Thắng, Soi Tiên, Éo, Yên Sở, Ao Dăm… đã hoàn thành hơn 2.000 mét đường bê tông. Hiện một số thôn đã tiếp tục đăng ký thêm hơn 1.000 mét trong năm nay.

Chiêu Yên đang là xã về đích sớm nhất trong bê tông hóa đường giao thông nông thôn theo Nghị quyết số 55 của HĐND tỉnh trên địa bàn huyện Yên Sơn. Là xã nằm xa trung tâm thị trấn nhưng cấp ủy, chính quyền và các tổ chức đoàn thể xã đã biết phát huy sức mạnh của nhân dân, làm tốt công tác dân vận để khắc phục khó khăn. Năm 2021, Chiêu Yên được giao bê tông hóa 6,2 km đường bê tông nông thôn theo phương châm “Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ”. Đến nay, Chiêu Yên đã hoàn thành 100% kế hoạch.

Chủ tịch UBND xã Mông Thanh Vấn chia sẻ, quá trình làm đường bê tông khó khăn nhất là công tác giải phóng mặt bằng. Tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số Tày, Dao chiếm trên 50% dân số nên bà con chỉ nghe, tin theo việc thật, người thật. Các thôn đều phải họp dân, công khai chủ trương, chính sách hỗ trợ của tỉnh để dân biết, dân bàn rồi tổ chức thực hiện. Với cách làm này đã nhận được sự đồng thuận cao của nhân dân. Đường bê tông rộng 3,5 mét, đường đi qua nhà nào, nhà đó tự dịch rào, hiến đất, chặt cây để thôn làm đường. Chủ tịch Vấn cho biết, toàn xã có 300 hộ hiến trên 10 nghìn m2 đất để thôn làm đường trong năm nay.

Nhân Lý (Chiêm Hóa) là xã còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí và mức sống của nhân dân không đồng đều nhưng nhờ biết cách khơi thông sức mạnh của nhân dân, dựa vào nhân dân, nhiều việc khó đã hoàn thành. Trong thực hiện các nghị quyết của Đảng ở đây, cán bộ xã, thôn đều đặt nhân dân ở vị trí trung tâm. Dân biết, dân bàn, dân làm là những phương châm và yêu cầu đầu tiên khi triển khai mọi công việc. Ông Hà Đức Mạnh, Trưởng thôn Điểng, xã Nhân Lý kể lại, cùng một lúc, thôn triển khai vừa làm nhà văn hóa vừa lồng ghép cả chương trình xây dựng đường điện thắp sáng. Cả hai chương trình này có hộ phải đóng góp từ 2 triệu đến 3 triệu. Vì vậy, chủ trương làm nhà văn hóa thôn được đưa ra nhân dân bàn bạc kỹ đến khi thống nhất cách làm, mức đóng góp mới triển khai.  Khi cán bộ và nhân dân cùng ngồi bàn bạc với nhau, nhân dân còn hiến kế để thôn triển khai hiệu quả, phù hợp với điều kiện của đa số các hộ gia đình. Nhân dân không chỉ đóng góp tiền mặt mà còn đóng góp ngày công lao động để đào đất, san nền, làm móng làm nhà văn hóa, đóng góp mua sắm trang thiết bị nhà văn hóa.
 

Thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 22-5-2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa XVI về kiên cố hóa kênh mương, bê tông hóa đường giao thông nội đồng và vùng sản xuất hàng hóa, xây dựng nhà văn hóa thôn, bản, tổ nhân dân gắn với sân thể thao và khuôn viên trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2016 - 2020, Tuyên Quang đã đưa vào sử dụng 550 nhà văn hóa thôn, tổ nhân dân gắn với sân thể thao và khuôn viên, nâng tổng số nhà văn hóa đạt chuẩn đến năm 2020 là 1.228 nhà văn hóa, đạt tỷ lệ 70,85%, vượt mục tiêu nghị quyết đề ra là 30,85%. Tổng kinh phí đầu tư trên 255 tỷ đồng, trong đó, kinh phí Nhà nước hỗ trợ cấu kiện bê tông đúc sẵn trên 140 tỷ đồng, chiếm 54,97%, kinh phí nhân dân đóng góp trên 114 tỷ đồng, chiếm 45,03% và tự nguyện hiến trên 36 nghìn m2 đất để thi công nhà văn hóa. Cũng trong giai đoạn này, tỉnh đã hoàn thành kiên cố hóa 160 km kênh mương nội đồng bằng cấu kiện bê tông thành mỏng đúc sẵn. Đến nay, Tuyên Quang đã có 45 xã hoàn thành 19/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới.

Nhân dân làm kênh mương nội đồng bằng cấu kiện bê tông đúc sẵn theo phương châm "Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ".

Không chỉ khơi sức mạnh nhân dân để xây dựng nông thôn mới, đầu tư hạ tầng giao thông, xây dựng các công trình phúc lợi…phục vụ chính cuộc sống của nhân dân, đội ngũ cán bộ từ tỉnh đến cơ sở còn gần dân, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân để vận động nhân dân đồng thuận trong giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng các công trình, dự án hạ tầng trọng điểm như dự án Đầu tư xây dựng đường dẫn cầu và cầu Tình Húc vượt sông Lô, thành phố Tuyên Quang, công trình  xây dựng 2 tuyến đường dọc sông Lô đấu nối với các tuyến Quốc lộ 37, Quốc lộ 2C, đường Hồ Chí Minh liên kết với đường cao tốc nối thành phố Tuyên Quang với cao tốc Nội Bài - Lào Cai, Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ kết nối với cao tốc Nội Bài - Lào Cai, Dự án Đầu tư xây dựng công trình Hạ tầng kỹ thuật Khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm, Dự án xây dựng đường trục phát triển đô thị từ thành phố Tuyên Quang đi Trung tâm huyện Yên Sơn Km14 Quốc lộ 2 Tuyên Quang - Hà Giang...

Trong đó, thực hiện dự án Đầu tư xây dựng đường dẫn cầu và cầu Tình Húc vượt sông Lô, thành phố Tuyên Quang đã vậ động thành công 187 hộ gia đình, cá nhân và tổ chức đồng thuận nhận tiền đền bù giải phóng mặt bằng để công trình thi công đúng tiến độ. Dự án Đầu tư xây dựng công trình Hạ tầng kỹ thuật Khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm, giai đoạn 2016 - 2020 cũng đã có 134/134 hộ gia đình, cá nhân, tổ chức nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và bàn giao mặt bằng. Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ kết nối với cao tốc Nội Bài - Lào Cai, có 339/428 hộ gia đình, cá nhân, tổ chức nhận tiền bồi thường, hỗ trợ để giải phóng mặt bằng.

Đối với 6 gói thầu trong triển khai thi công công trình  xây dựng 2 tuyến đường dọc sông Lô đấu nối với các tuyến Quốc lộ 37, Quốc lộ 2C, đường Hồ Chí Minh liên kết với đường cao tốc nối thành phố Tuyên Quang với cao tốc Nội Bài - Lào Cai, công tác giải phóng mặt bằng đã đảm bảo kế hoạch đề ra, nhận được sự đồng thuận cao của nhân dân. Điển hình như gói thầu số 3,4,5, đã có 214/214 hộ gia đình, cá nhân, tổ chức đã nhận tiền đền bù, hỗ trợ để bàn giao mặt bằng thi công công trình.

Những công trình đã và đang được thực hiện làm cho diện mạo thành phố Tuyên Quang ngày một thay đổi.

Những kết quả đó đã cho thấy, bất kể chủ trương, nghị quyết nào của Đảng nếu huy động được sức mạnh nội lực trong nhân dân sẽ thắng lợi, bởi “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì quý bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định.
 

NHỮNG BÀI HỌC QUAN TRỌNG

Muốn nhân dân tin tưởng, đồng thuận thực hiện nghị quyết của Đảng, trước hết cần gần gũi, lắng nghe nhân dân. Từ đó nắm bắt tình hình trong nhân dân, nhất là những vướng mắc, bức xúc của nhân dân để có các giải pháp lãnh đạo, triển khai thực hiện phù hợp. Người cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu càng cần phải nêu gương đi trước, hy sinh cả lợi ích của bản thân vì việc chung. Có như vậy, việc khó vận động cũng thành dễ.

Những con đường bê tông nông thôn ở Tuyên Quang

 

Trực tiếp tham gia, phối hợp với các cơ quan, đơn vị, chính quyền địa phương trong công việc vận động giải phóng mặt bằng hàng chục năm qua, đồng chí Đỗ Ngọc Thu, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Tuyên Quang chia sẻ: “Công việc vận động nhân dân giải phóng mặt bằng để thực hiện các công trình của Nhà nước quả thực gian nan, vất vả vì động đến đất đai, tài sản, lợi ích sát sườn của nhân dân. Người cán bộ vừa phải nắm chắc, nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước về công tác đền bù, giải phóng mặt bằng đối với từng công trình, dự án nhưng cũng phải linh hoạt, mềm dẻo trong vận động, tuyên truyền. Quan trọng nhất đó là phải luôn gần gũi với nhân dân, đứng vào vị trí của người dân để thấu hiểu. Sau đó tham mưu giải pháp vừa thỏa đáng với lợi ích, nguyện vọng của nhân dân vừa đúng quy định”. Với kinh nghiệm này, chị Thu đã tham gia vận động giải phóng mặt bằng thành công nhiều công trình, dự án trọng điểm của thành phố, của tỉnh.

 

 

Đồng chí Dương Văn Thìn, Chủ tịch UBND phường Nông Tiến (TP Tuyên Quang) cho biết, những năm gần đây, trên địa bàn phường cùng một lúc phải vận động giải phóng mặt bằng nhiều công trình, dự án quan trọng của tỉnh, thành phố như đường dẫn cầu Tình Húc và cầu Tình Húc, hai tuyến đường dọc bờ sông Lô, tuyến đường từ tổ 18 đi làng Dùm sang Thiền Viện Trúc lâm chính pháp…nhưng đến nay công tác vận động giải phóng mặt bằng cơ bản hoàn tất. Trực tiếp người đứng đầu UBND phường như anh Thìn nhiều lần đối thoại với nhân dân để lắng nghe nhân dân phản ánh, trình bày tâm tư, nguyện vọng. Anh Thìn luôn rèn cho mình phương pháp lắng nghe khi tiếp xúc, đối thoại với nhân dân để từ đó anh nghĩ cách, tham mưu với đảng ủy chỉ đạo giải quyết. Bởi vậy, có những hộ sau một thời gian dài kiên quyết không nhận tiền đền bù giải phóng mặt bằng để Nhà nước triển khai xây dựng đường dẫn cầu Tình Húc, cuối cùng cũng vui vẻ đồng thuận. Anh Thìn chia sẻ, lắng nghe nhân dân nói, nhân dân phản ánh luôn là bài học trong công tác dân vận của anh.

Chục năm làm Bí thư chi bộ, tổ trưởng tổ dân phố 1, phường Đội Cấn (TP Tuyên Quang), đồng chí Lê Văn Vinh nhiều lần đi vận động nhân dân thực hiện các đề án, chương trình, nghị quyết của tỉnh về làm đường bê tông nông thôn, kiên cố hóa kênh mương nội đồng. Đến nay, tổ đã bê tông hóa 100% đường trục chính.

Bài học mà đồng chí Vinh rút ra sau nhiều năm làm trưởng thôn và gắn bó với việc vận động nhân dân thực hiện các nghị quyết của Đảng đó là người cán bộ phải gây dựng được uy tín trong nhân dân, làm đúng, làm đủ theo quy định, đặt lợi ích chính đáng của nhân dân lên trên hết. Cán bộ dù ở cương vị nào, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu và gần gũi với nhân dân. Suy nghĩ như vậy nên công việc gì của tổ, ông Vinh đều có mặt. Có khi ông tuyên truyền trong các buổi họp, có khi lại trong những buổi gặp gỡ, vừa uống trà vừa trò chuyện thân tình với nhân dân.