Ông Đỗ Tiến xuống tận dưới đường đưa chúng tôi lên gác. Trong căn phòng cũ có rất nhiều tài liệu, hình ảnh có lẽ từ rất lâu vẫn còn được lưu giữ. Điều chúng tôi thật bất ngờ, một ông cụ đã 90 tuổi mà bước chân vẫn đĩnh đạc, giọng nói vẫn còn sang sảng.
Ông Tiến kể lại, năm 1948, lúc đó ông mới 17 tuổi đã lên đường nhập ngũ. Năm 1953, ông được điều động vào Trung đoàn pháo cao xạ 367. Đây là Trung đoàn pháo cao xạ chủ lực đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sau 8 tháng huấn luyện tại Trung Quốc, đến tháng 12 - 1953, Trung đoàn có lệnh cho 2 Tiểu đoàn 383 và 394 hành quân về nước trong đó có ông Tiến. Khi về nước toàn bộ đội hình 2 Tiểu đoàn cùng khí tài tập kết núi Nghiêm, thị xã Tuyên Quang chuẩn bị cho chiến dịch có tên là Trần Đình. Ông Tiến bảo, mọi thứ đều phải bí mật, về đến gần nhà nhưng cũng không được về, mãi sau này khi chiến dịch chính thức phát động cả đơn vị mới biết chiến dịch Trần Đình chính là chiến dịch Điện Biên Phủ.
Ông Đỗ Tiến, tổ 16, phường Tân Quang (TP Tuyên Quang) giới thiệu bức ảnh được chụp sau Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Ông Tiến nghẹn ngào kể lại: khẩu đội của ông trong lúc kéo pháo, 1 dây kéo bị đứt do trúng đạn pháo của Pháp bắn từ Mường Thanh, khẩu pháo nhao xuống, một pháo thủ bị văng xa. Ngay lúc đó, Khẩu đội trưởng Tô Vĩnh Diện đã lao vào, lấy thân mình chèn bánh pháo. Khi khẩu pháo được an toàn, chúng tôi mới xúm lại áp vào ngực xem anh nói được gì không. Lúc này ngực anh Tô Vĩnh Diện đã bị nát nhưng anh vẫn thều thào hỏi: “Pháo có bị rơi không?”. Hình ảnh về người Anh hùng Tô Vĩnh Diện dù đã 69 năm trôi qua với ông Tiến vẫn còn đọng mãi.
Trong chiến dịch, nhiệm vụ của đơn vị ông Tiến là yểm hộ bộ binh chiến đấu cả ngày lẫn đêm, thu hẹp phạm vi hoạt động của máy bay địch, hạn chế tiến tới triệt hẳn đường tiếp tế hàng không của chúng. Sự xuất hiện của pháo cao xạ trên chiến trường Điện Biên Phủ là một bất ngờ lớn đối với thực dân Pháp. Mỗi ngày địch huy động hơn một trăm máy bay đổ lương thực đạn dược xuống Mường Thanh. Nhưng địch chỉ nhận được khoảng một nửa. Máy bay địch phải bay cao tránh cao xạ tầm trung của ta, khu vực thả dù lại quá hẹp nên một phần ba đồ tiếp tế xuống trận địa ta, một số rơi xuống bãi mìn và những khu vực bị hỏa lực ta kiểm soát chặt nên địch không thể thu lượm. Cuộc chiến giữa pháo cao xạ với không quân địch diễn ra liên tục và vô cùng quyết liệt, máy bay địch với nhiều loại liên tục bị bắn rơi, sân bay Mường Thanh từng bước bị ta khống chế, cắt đứt con đường tiếp tế hàng không duy nhất của địch.
Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, ông Tiến tiếp tục tham gia chiến dịch Xuân Mậu Thân năm 1968, chiến dịch đường 9 Khe Sanh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Năm 1972, ông được điều động về giảng dạy tại Học viện Lục quân đến lúc nghỉ hưu.
Năm 1989, Hội Cựu chiến binh Việt Nam được thành lập, ông Tiến được tiến cử làm Chủ tịch Hội CCB thị xã Tuyên Quang. Trong suốt 13 năm công tác tại Hội CCB ông Tiến có nhiều đóng góp xây dựng tổ chức Hội ngày càng lớn mạnh. Mặc dù tuổi đã cao nhưng hầu như năm nào cứ đến dịp kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ ông Tiến cũng được mời đi nói chuyện với học sinh các nhà trường. Ông Tiến bảo, những ngày diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ là những ngày tháng không thể quên, đó cũng là những kỷ niệm đẹp nhất, niềm vinh dự, tự hào của cả cuộc đời ông.
Khi đất nước đã hòa bình, chẳng còn đạn bom, lửa khói, bên cạnh những kỷ niệm rất đỗi vinh quang, vẫn có một điều khiến ông day dứt, xót xa là còn nhiều đồng đội đã ngã xuống vẫn chưa tìm được hài cốt, chưa được ghi danh vào bia mộ. Cứ mỗi độ tháng Năm về, ông lại kể cho con cháu nghe về một thời hoa lửa, nhắc nhở con cháu phấn đấu xây dựng quê hương ngày càng phát triển, xứng đáng với sự hy sinh của thế hệ cha anh đi trước. Lần này chúng tôi được nghe ông kể về thời trai trẻ, để được sống lại những ngày tháng đau thương mà anh dũng, để trân quý hơn hòa bình, no ấm hôm nay.
Gửi phản hồi
In bài viết