Với nhạc sỹ Tăng Thình chính những công việc bình dị như câu cá, tỉa cành, trồng cây… lại là cách nuôi dưỡng cảm hứng để lóe ra trong đầu một giai điệu hay, một lời ca đẹp. Đứng giữa trang trại lộng gió, ríu rít tiếng chim, ông mỉm cười nói rằng: “Âm nhạc đến từ trái tim và khi con tim mình hân hoan, rạo rực nhất thì mọi thanh âm, khúc biến tấu tự nhảy múa, ngân nga trong không gian, thôi thúc mình cầm bút và viết”.
Nhạc sỹ Tăng Thình.
Rèn luyện trong môi trường quân ngũ
Sau khi nghỉ hưu, nhạc sỹ Tăng Thình lui về sống trong một trang trại tại thôn Nà Coóc. Ông sống gần như tách bạch với phố thị bên ngoài và ông cũng gần như rời xa mạng xã hội (Facebook, Zalo) để say mê với việc nhà nông và sáng tác âm nhạc.
Ngay từ khi học trường làng ông đã tạo sự khác biệt khi thể hiện được năng khiếu âm nhạc tại các buổi liên hoan văn nghệ. Tình yêu nghệ thuật thôi thúc cậu học trò nhỏ tự nghiên cứu sáng tác nhạc, tìm mua sách lý thuyết âm nhạc, sách ký xướng âm, giáo trình dạy sáng tác để tự học. Tốt nghiệp THPT, ông tình nguyện lên đường nhập ngũ trở thành anh lính Cụ Hồ, tham gia chiến đấu ở chiến trường C nước bạn Lào, cho đến sau ngày 30-4-1975 đất nước thống nhất Bắc Nam, non sông thu về một mối. Tăng Thình được trở về đóng quân tại Quân khu 4 - Sư đoàn 316B.
Có thể thấy rằng quãng thời gian ông sống, chiến đấu và rèn luyện trong quân ngũ đã rèn luyện nên một nhạc sỹ trẻ có nghị lực, ham học tập, lao động nghệ thuật nghiêm túc, ông tham dự nhiều lớp tập huấn sáng tác của Nhạc S1EF9 có uy tín của nền âm nhạc Việt Nam. Điển hình như: Nhạc sỹ nghệ sỹ nhân dân Trọng Bằng, Huy Thục, Phạm Tuyên, Tân Huyền, Hồng Quân, An Thuyên, Cát Vận, Đoàn Bổng...
Với sự cống hiến nghệ thuật không mệt mỏi, nhiều tác phẩm đặc sắc của Tăng Thình ra đời kịp thời cổ vũ động viên quân và dân ta trong những năm tháng ấy. Điển hình như “Vào Trận Mới”; “Lời ca gửi anh pháo thủ”; “Tổ 3 người trên trận chiến hôm nay”... Trong đó có ca khúc được Đoàn nghệ thuật quân khu 4 dàn dựng giành Huy chương Vàng, Huy chương Bạc qua các kỳ hội diễn văn nghệ. Cầm trên tay tập bản nhạc dày dặn của Nhạc sỹ Tăng Thình mới thấy ở ông một tình yêu âm nhạc vô bờ bến, sự lao động say mê, tìm tòi trong sáng tạo nghệ thuật âm nhạc.
“Tiếng đàn then” bay mãi
Sau những năm tháng bôn ba, chàng trai trẻ nặng nợ quê hương, gia đình và xin chuyển về quê nhà công tác. Tăng Thình làm việc tại Công ty Lâm nghiệp Chiêm Hóa rồi làm cán bộ tại Đài Truyền thanh, truyền hình huyện. Được sống hòa mình với quê hương, sum vầy bên gia đình, mạch nguồn cảm xúc càng mãnh liệt và tạo nên những dấu ấn trong cuộc đời sáng tác của ông.
Là người Tày, Tăng Thình hiểu và thấm sâu những giá trị văn hóa dân tộc mình. Ông thích khám phá những phong tục tập quán, nét sinh hoạt văn hóa của các dân tộc khác để tìm ra sự độc đáo trong sáng tác. Ông bỏ công sức đi tìm hiểu và gom thành những chất liệu, hy vọng sẽ xây nên những lâu đài nghệ thuật riêng mình. Không ít người đã được nghe bài hát “Tâm tình điệu hát Then” êm ái, mượt mà; hay ca khúc “Đến với chợ tình”, “Tiếng khèn” đậm chất dân tộc Mông; một “Khúc Pì lè” mạnh mẽ mà quyến rũ của người Dao đỏ hay những giai điệu tha thiết, sâu lắng trong “Điệu Soọng cô”...
Có một tác phẩm đã làm nên thương hiệu cho Tăng Thình đó là “Tiếng đàn Then”. Đây là nhạc phẩm giành được Huy chương Vàng Hội diễn toàn quốc Liên đoàn lao động Việt Nam năm 2000. Đến nay “Tiếng đàn Then” đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người yêu nhạc khắp vùng Việt Bắc, được các Đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, các đội văn nghệ quần chúng dàn dựng biểu diễn.
Bài hát dựa trên chất liệu dân ca dân tộc Tày với cách biến tấu linh hoạt, tác phẩm tạo được sự lôi cuốn riêng biệt. Có người cho rằng, ca khúc của Tăng Thình thường sử dụng những nốt nhạc một cách hiền lành, ít thấy có cao trào. Nhưng cũng chính điều đó đã làm cho một phong cách gần gũi, giản dị phù hợp với cách cảm, cách nghĩ của đồng bào dân tộc thiểu số. Quả thực, đến với “Tiếng đàn Then”, giai điệu của ca khúc cứ lúc rộn ràng, lúc êm ả, mênh mang: “Bầu đàn tròn như trăng rằm/Cần đàn dài nặng gánh nghĩa tình/Tiếng đàn then tính tính/Âm vang, âm vang từ ngàn xưa/Tiếng đàn then tính tính/Ngân xa, ngân xa muôn đời sau”.
Bài hát được viết bằng nhịp 2/4, âm hưởng uyển chuyển, rất nữ tính thể hiện nội tâm đầy cảm xúc. Nhịp điệu tiếp tục chậm rãi, từ tốn như một lời kể tâm tình nhưng ẩn đằng sau là cả một câu chuyện về nét đẹp văn hóa của người Tày: “Đôi dây đàn, dây trời dây đất/Đôi dây đàn, dây mẹ dây cha”.
Những âm thanh trầm bổng của cây đàn tính là thanh âm thiêng liêng của đất trời, của tình mẫu tử, tình cha con. Đó là tinh hoa ngàn đời nay mà người Tày trân quý như bảo vật. Bài hát có lời ca đầy hình tượng mà lại dung dị, gần gũi phù hợp với cách nói, cách cảm nhận con người miền núi thật thà chất phác: “Ngày xưa đói nghèo tiếng đàn nghẹn ngào lệ rơi/Hôm nay đổi mới núi rừng rộn ràng lời ca/Tiếng đàn… gọi chim rừng, gọi suối reo, gọi gió ngàn, gọi vầng trăng lên”. Tăng Thình vận dụng các làn điệu dân ca một cách linh hoạt và nhuần nhuyễn, làm cho giai điệu, ca từ trở lên mượt mà, đằm thắm.
Bài hát có sự sáng tạo qua cách sử dụng thủ pháp phát triển âm nhạc có tính kỹ thuật cao, âm vực của bài hát được thay đổi liên tục tạo nên những cung bậc cảm xúc đầy lắng đọng. Lúc ngân vang, lúc da diết, lúc hân hoan, dồn dập tạo nên sự uyển chuyển, lôi cuốn. Ca khúc khép lại với lời ca thật ý nghĩa: “Điệu hát then rộn ràng vui trong đêm hội mùa/Đưa ta về, ta về bên nhau/Điệu hát then bồng bềnh trong mây như huyền thoại/Đưa ta về cội với nguồn”.
Đây chính là lời khẳng định về sự bền vững của bản sắc văn hóa người Tày. Dẫu thời gian trôi qua đưa đến bao sự đổi thay nhưng người Tày vẫn luôn giữ được nét văn hóa riêng của mình. Tiếng đàn then không chỉ âm nhạc truyền thống mà nó là thanh âm vọng lại bao đời nay của núi rừng, biểu tượng của đất trời hòa hợp, tình người hòa quyện bên nhau. Ca khúc cất vang, người nghe thổn thức cùng âm thanh da diết. Ta như hình dung ra được không gian núi rừng mênh mang, tiếng đàn tính tẩu, lời then da diết thấm đẫm bản sắc văn hóa người Tày.
Lặng lẽ, ít nói, hiền lành, thích mày mò... đó là những điều mọi người thường nhận xét về Tăng Thình. Ông cứ âm thầm sáng tác tựa như một khúc biến tấu lặng lẽ, dịu dàng để ghi tên vào lòng công chúng những tác phẩm chất liệu miền núi gần gũi mà ấn tượng.
Gửi phản hồi
In bài viết