Bảo vệ tuyệt đối an toàn khu
Trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở, làm việc tại gần 20 địa điểm khác nhau trên địa bàn tỉnh gần 6 năm. Nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và 65 ngành, đoàn thể, cơ quan, cơ sở kinh tế, quân sự (trong đó có 13/14 bộ, cơ quan ngang bộ) đặt nơi ở, làm việc trên địa bàn tỉnh. Là Thủ đô Kháng chiến, An toàn khu của Trung ương, Tuyên Quang từng bước được xây dựng vững chắc, toàn diện cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự… có những đóng góp xứng đáng vào các chiến dịch quân sự lớn.
Các đại biểu tham gia tọa đàm tại hội thảo khoa học Thủ đô Kháng chiến Tuyên Quang với chiến thắng
Điện Biên Phủ - những giá trị lịch sử.
Vào Đông Xuân 1953 - 1954, ATK Kim Quan (Yên Sơn) là nơi ở, làm việc chủ yếu của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây chính là tổng hành dinh chỉ đạo toàn bộ chiến dịch; nơi Bác Hồ và Trung ương hàng ngày theo dõi sát sao diễn biến chiến trường và tình hình trong, ngoài nước để đưa ra những quyết sách quan trọng, bảo đảm thắng lợi của chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ.
TS. Lê Quang Chắn, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam khẳng định: Chính trong giai đoạn này, Đảng đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng, thúc đẩy cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.
Theo đồng chí Vương Kim Việt, Chủ tịch Hội Cựu TNXP cho biết, giai đoạn 1950 - 1954, Tuyên Quang đã huy động 240 TNXP tham gia nhiệm vụ phục vụ và cùng lực lượng vũ trang bảo vệ an toàn các cơ quan đầu não của Trung ương Đảng, Chính phủ tại Tân Trào, Sơn Dương và các xã thuộc khu ATK trên địa bàn tỉnh. Khi đó, lực lượng TNXP được biên chế trong Đội TNXP 36 đoàn XP. Sau đó, theo yêu cầu nhiệm vụ, một số đồng chí được chuyển sang đội TNXP 34 và 40, làm nhiệm vụ vận tải, chuyển vũ khí, lương thực, đảm bảo giao thông tại Ngã ba Cò Nòi, Sơn La, tham gia trực tiếp phục vụ chiến dịch Thượng Lào và chiến dịch Điện Biên Phủ.
Không chỉ bảo vệ vững chắc, tuyệt đối căn cứ địa, an toàn khu của Đảng, quân và dân trong tỉnh còn sẵn sàng lên đường, cùng cả nước chiến đấu, giành chiến thắng vang dội. Cuối năm 1953 tỉnh đã hoàn chỉnh biên chế lại lực lượng bộ đội địa phương theo quy định của Liên khu. Năm 1954 tỉnh có 1.734 đội viên du kích, trung bình mỗi xã có 1 tiểu đội với biên chế 10 người. Năm 1954 tỉnh đã tuyển quân được 581 người trong đó bổ sung cho lực lượng chính quy được 349 người. Ngoài việc bảo vệ cầu đường, bộ đội địa phương Tuyên Quang còn điều 5 đại đội làm nhiệm vụ giải tù binh, truy quét biệt kích trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
“Chia lửa” với Điện Biên
Nằm ở vị trí có những tuyến đường chiến lược, mạch máu nuôi dưỡng chiến dịch, Tuyên Quang là mục tiêu đánh phá của máy bay địch. Để bảo vệ giao thông vận tải, toàn tỉnh thành lập hai đội sửa chữa (216 và 217) với 60 đồng chí TNXP được biên chế trong 2 đơn vị này. Nhiệm vụ chủ yếu là đảm bảo giao thông cho các tuyến giao thông đi từ Đèo Khế tiếp giáp 2 tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang đến Cầu Ngầm, bến Bình Ca, Dốc Đỏ, bến Phà Hiên, ngã ba Đông Lý…. Đây là một trong những con đường huyết mạch vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm lên Tây Bắc phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ. TNXP đơn vị 216, 217 đã phá hàng trăm quả bom nổ chậm, mở hàng chục km đường mới, đảm bảo giao thông thông suốt trong mọi tình huống. Dọc các tuyến đường, công tác bảo vệ cầu đường được đưa vào các tổ sản xuất, vừa sẵn sàng sửa đường ngay khi địch bắn phá vừa làm biển báo “có máy bay”, cọc tiêu chỉ đường cho xe chạy đêm...
Cựu thanh niên xung phong Nguyễn Biên Thùy, tổ dân phố Tân Phúc (thị trấn Sơn Dương) với những kỷ vật ngày đảm bảo giao thông chiến dịch Điện Biên Phủ.
Từ tháng 7/1953, Tuyên Quang mở chiến dịch cầu đường huy động 1.021.136 ngày công sửa chữa toàn bộ hệ thống đường dài 168 km. Bước vào thời điểm quyết định của chiến dịch Điện Biên Phủ, Tuyên Quang đã huy động 1.854.360 ngày công với tổng số 56.196 người, chiếm 43% dân số toàn tỉnh. Dưới bom đạn, công nhân cầu phà vẫn phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật đảm bảo thông đường, thông phà trong thời gian ngắn nhất, kể cả những lúc cao điểm. Thời gian trực phà rút xuống từ 60 phút xuống 30 phút, qua phà từ 30 phút rút xuống 8 phút, mức vận chuyển trước đây là 20 xe nay tăng lên 64 xe trong ngày. Tính từ 29/11/1953 đến 7/5/1954 đã có 4.734 xe ô tô từ Thái Nguyên qua phà Bình Ca để lên chiến trường Tây Bắc...
Đảm bảo huy động cao độ nhân, vật, tài lực cho cuộc kháng chiến đang bước vào thời điểm quyết định, đầu năm 1953 Tỉnh ủy Tuyên Quang ra chỉ thị về huy động lực lượng phục vụ các chiến dịch, nêu rõ 3 vấn đề lớn cần thực hiện là: Lãnh đạo quần chúng lên đường đấu tranh với quân thù. Phổ biến kế hoạch, nhiệm vụ, tầm quan trọng xuống chi bộ, để chi bộ thi hành nhiệm vụ. Các huyện ủy phải lãnh đạo huy động số lương thực đã giao, cử cấp ủy để hướng dẫn và phụ trách dân công. Đồng thời, Tỉnh ủy cũng quyết định thành lập Hội đồng cung cấp tiền phương của tỉnh do một đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy làm Chủ tịch. “Tất cả cho tiền tuyến chiến thắng”, Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc Tuyên Quang đã dồn hết sức lực, tình cảm của mình cho mặt trận.
Dưới sự chỉ đạo của Ban dân công tỉnh, phong trào “đi dân công là yêu nước” diễn ra sôi động. Gối đất, nằm sương, trèo đèo, lội suối, các đoàn dân công được biên chế theo tổ chức quân sự nối nhau lên đường ra phía trước.
Trong ngôi nhà nhỏ ở tổ dân phố Tân Phúc, thị trấn Sơn Dương, ông Nguyễn Biên Thùy, năm nay đã 88 tuổi vẫn không quên được những tháng ngày mình và biết bao chàng trai ở độ tuổi 18, đôi mươi “Những đôi chân đồng, vai sắt của thế hệ thanh niên xung phong” tham gia vào lực lượng thanh niên xung phong, mở tuyến đường Hòa Bình - Sơn La - Tuần Giáo, đảm bảo giao thông vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Ông Thùy bảo, phương tiện công cụ ngày ấy đều bằng sức người. Nhắc đến những ngã ba Cò Nòi ở Mai Sơn, Sơn La là nhắc đến túi bom trên tuyến lửa ấy. Nơi đây, nhiều đồng đội thanh niên xung phong đã một đi không trở về, vĩnh viễn nằm lại những con đường, nhưng không ai nề hà, nản chí, tất cả đồng lòng quyết tâm bám chặt công trường để hình thành nên những cung đường hướng về chiến dịch.
Trong năm 1953 tỉnh đã huy động 3 đợt dân công với 9.762 người đi phục vụ Chiến dịch Tây Bắc, cả năm huy động 1.021.738 ngày công. Năm 1954 huy động 1.854.360 ngày công.
Trong suốt cuộc kháng chiến, chỉ tính riêng việc phục vụ cho các chiến dịch và kiến thiết cầu, đường, phà, Tuyên Quang đã huy động tới 6.519.000 ngày công; với số dân 13 vạn người, năm 1954 tỉnh đã huy động tới 56.196 lượt người đi dân công (chiếm 43% dân số).
Không chỉ trực tiếp chi viện cho tiền tuyến, lực lượng dân công của tỉnh Tuyên Quang đã tham gia xây dựng 6 trại điều dưỡng cho 500 thương, bệnh binh... Nét đẹp cao cả của mối quan hệ giữa con người với con người trong chế độ xã hội mới đã được tạo dựng và nhân lên qua mỗi ngày, góp phần tạo thêm sức mạnh cho kháng chiến.
Chắt chiu một lòng cho kháng chiến thắng lợi, Nhân dân các dân tộc đồng lòng, tự giác cung cấp lương thực, thực phẩm cho tiền tuyến. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, quân và dân Tuyên Quang đã cung cấp cho tiền phương 6.486.955 kg gạo, 52.770 kg thịt trâu, 914 kg thịt bò, 41. 657 kg lợn, 10.890 kg lạc, 11.282 kg đỗ xanh. Ngoài ra tỉnh còn cung cấp cho bộ đội hàng trăm tấn rau xanh, cung cấp 1.881.322 kg gạo cho các chiến dịch làm cầu đường...
Thượng tá, TS Nguyễn Trung Thông, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng trong Hội thảo khoa học “Thủ đô Kháng chiến Tuyên Quang với Chiến thắng Điện Biên Phủ - Những giá trị lịch sử” đã khẳng định: Những đóng góp to lớn của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang với chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn sẽ còn mãi, là động lực to lớn để Nhân dân Tuyên Quang vươn lên giành những đỉnh cao mới trong sự nghiệp phát triển quê hương, góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước “ngày càng cường thịnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc…”.
Gửi phản hồi
In bài viết