Một số điểm nổi bật trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua Tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

- Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” thể hiện tầm cao tư tưởng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong tổng kết, luận giải những vấn đề lý luận rất rộng lớn trên các lĩnh vực, đặc biệt là phân tích, hệ thống hóa, đưa ra những quan điểm, tư tưởng, nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cuốn sách có ý nghĩa vô cùng quan trọng, truyền cảm hứng, khơi dậy khát vọng lớn lao của toàn dân tộc trong thực tiễn phát triển đất nước giai đoạn hiện nay.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân tại Lễ hội Đền Hùng_Ảnh : Tư liệu

Chủ nghĩa xã hội luôn luôn là mục tiêu lớn lao, lý tưởng cao đẹp của Đảng ta và nhân dân ta

Bằng lập luận chặt chẽ, phân tích sâu sắc, chắt lọc từ thực tiễn phong phú, đồng chí Tổng Bí thư đã tổng kết lịch sử phát triển của thế giới đương đại cũng như thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ đó khẳng định một cách khoa học về con đường duy nhất đúng cho sự phát triển của đất nước - đó là con đường xã hội chủ nghĩa. Đồng chí nhấn mạnh: nhân dân Việt Nam đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của Đảng, là nguyên lý thành công của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu duy nhất đúng để đạt được tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát những thành tựu cơ bản, quan trọng của Đảng trong vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và các nhà cách mạng tiền bối đã lựa chọn con đường phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội cho Việt Nam; tổ chức và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân từng bước hiện thực hóa những giá trị đó thành thực tế sinh động trên đất nước ta. Những giá trị ấy không chỉ được tổng kết về lý luận, mà đã được kiểm chứng bằng chính thực tiễn công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(1). Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và luôn kiên định, kiên trì theo đuổi. Chủ nghĩa xã hội Việt Nam gắn liền với độc lập dân tộc, quyền tự quyết của dân tộc, gắn liền với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm độc lập cho dân tộc, quyền tự quyết của dân tộc và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, của mọi dân tộc trên đất nước ta. “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”(2).

Về những đặc trưng, giá trị, nội hàm của chủ nghĩa xã hội

Đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(3). Những giá trị đích thực ấy đã trở thành mục tiêu căn bản, định hướng con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, tin tưởng và luôn kiên định thực hiện.

Tổng kết về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và con đường tư bản chủ nghĩa, đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ ra: chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước(4). Nhưng bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản là không thể che đậy, những mâu thuẫn vốn có cũng như các cuộc khủng hoảng “không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa”(5). Chủ nghĩa tư bản vẫn còn dư địa phát triển, nhưng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là điểm dừng cuối cùng của lịch sử xã hội của loài người. Dân chủ vẫn chỉ là hình thức, không thực chất. Trong đời sống chính trị, xã hội, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ”, dù có thể thay đổi chính phủ, nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản(6). Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ về bản chất của thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội(7).

Từ đó, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ xã hội, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có(8). Đây chính là những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội; và, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chính là con đường duy nhất đúng để đạt được những giá trị đó trong hiện thực đời sống của nhân dân.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng và các đại biểu tham dự buổi lễ ra mắt cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng_Ảnh: TTXVN

Về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội

Đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp cách mạng lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát ở Việt Nam là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Phương hướng, giải pháp mang tính phương pháp luận để chỉ dẫn cho việc thực hiện con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện(9).

Để hiện thực hóa mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, đòi hỏi cả một sự nghiệp cách mạng vô cùng khó khăn và phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, cạnh tranh với nhau, luôn có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Đi lên chủ nghĩa xã hội là quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa, để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng những nhân tố, thiết chế, thể chế phi xã hội chủ nghĩa, không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa. Phải đầu tư sức người, sức của to lớn, phải sáng tạo không mệt mỏi, đặc biệt là phải suy nghĩ, tìm tòi lộ trình và bước đi hợp lý, cách làm đúng đắn để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra; phải kiên trì, không chủ quan, nóng vội; phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước, tôn trọng quy luật khách quan, tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc.

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được đồng chí Tổng Bí thư đề cập thể hiện ở các nội dung cơ bản sau:

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tác phẩm của đồng chí Tổng Bí thư đề cập sâu sắc đến nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; được coi là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong thực hiện xây dựng nền tảng kinh tế - vật chất nhằm từng bước hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh ở Việt Nam. Phát triển kinh tế tri thức trở thành nội hàm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trở thành phương thức phát triển thích hợp từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến tới xây dựng nền tảng vật chất của chủ nghĩa xã hội.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đột phá cơ bản và sáng tạo lý luận quan trọng của Đảng ta. Đây là kết quả quá trình lâu dài tìm tòi, nghiên cứu, phát triển tư duy lý luận, khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn của Đảng ta, xuất phát từ thực tiễn trong nước và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh(10). Hình thái tổ chức kinh tế này vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc cơ bản và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.

Tác phẩm của đồng chí Tổng Bí thư đã phân tích, làm rõ bản chất, thể chế, cấu trúc, cơ chế vận hành, mục tiêu, đặc trưng cơ bản, thuộc tính riêng có về định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Thuộc tính quan trọng, đặc trưng cơ bản, làm nên sự khác biệt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những nền kinh tế thị trường khác là: “Gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”(11). Đó là sự quan tâm đặc biệt đến chính sách xã hội, chính sách đối với con người, phát triển hài hòa giữa kinh tế với xã hội, không vì tăng trưởng kinh tế mà coi nhẹ tiến bộ, công bằng xã hội; phải tạo điều kiện cho con người được thụ hưởng mọi thành tựu của phát triển, cuộc sống của con người được cải thiện đồng thời với tiến trình xây dựng, phát triển kinh tế.

Phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng con người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: “Văn hóa là nói đến những gì là tinh hoa, tinh túy nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ”(12). “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(13). Văn hóa được khẳng định là một trong bốn trụ cột chính sách của Đảng về xây dựng, phát triển đất nước; là sự bảo đảm cho định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, thể hiện tính nhân văn, ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Tác phẩm phân tích: “Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội”(14). Việt Nam xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hóa của nhân loại.

Đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”(15). Đây là một vấn đề có tính quy luật, bởi xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người và vì con người. Mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội là mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tiến bộ và công bằng cho mọi thành viên trong xã hội, không phân biệt đẳng cấp, địa vị xã hội.

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Thàng Tín (xã Pố Lồ, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang) giúp đồng bào thu hoạch lúa_Ảnh: TTXVN

Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh; xây dựng nền ngoại giao hiện đại, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và năng lực hội nhập quốc tế.

Đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”(16). Tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Xây dựng thế trận lòng dân, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Tổng Bí thư yêu cầu Đảng bộ Quân đội cần quán triệt đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò của quân đội ta là “Quân đội nhân dân, Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và được đặt dưới sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng; do vậy Quân đội phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, gắn bó máu thịt với nhân dân” (17), thực hiện tốt 6 nhiệm vụ về: Quán triệt, nhận thức sâu sắc về bản chất, trách nhiệm của quân đội; xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, gương mẫu, tiêu biểu; xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tăng cường mối quan hệ máu thịt của quân đội với nhân dân; sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; phối hợp các bộ, ngành, địa phương để tăng cường tiềm lực quốc phòng và thế trận quốc phòng toàn dân; thực hiện đồng bộ các giải pháp để xây dựng “Quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”.

Tổng Bí thư nhấn mạnh yêu cầu tập trung quyết liệt, thực hiện đồng bộ các giải pháp để xây dựng “lực lượng công an thật sự trong sạch, vững mạnh, gần dân, sâu sát cơ sở”(18); chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng, các bộ, ngành, địa phương và quân đội để “giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống; tuyệt đối không chủ quan, lơ là; không để bị động, bất ngờ”(19). Lực lượng công an phải “Kịp thời phát hiện, chủ động xử lý có hiệu quả các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự, không để xảy ra các “điểm nóng”. Kịp thời đấu tranh trấn áp hiệu quả các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao, băng nhóm ma túy”(20).

Về đối ngoại, đồng chí Tổng Bí thư phân tích, đưa ra nhận thức, tư duy mới: “Đối ngoại ngày nay không chỉ là sự nối tiếp của chính sách đối nội, mà còn là một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của các quốc gia, dân tộc”(21). Từ việc tổng kết thực tiễn công tác đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước ta, Tổng Bí thư đã khái quát về trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam” - mang đậm bản sắc dân tộc, “dĩ bất biến ứng vạn biến”, “giữ trái tim nóng, cái đầu lạnh”, “kiên quyết, kiên trì” để xử lý các thách thức đối ngoại một cách mềm mại mà hiệu quả, tranh thủ các điểm đồng về lợi ích để thúc đẩy hợp tác và phát triển, bảo vệ tối đa lợi ích của quốc gia - dân tộc. Việc xây dựng, phát triển và phát huy vai trò của trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam” là điều kiện, cơ sở để hoạt động đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hoàn thành được nhiệm vụ cơ bản đặt ra là: “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”(22). Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại; nâng cao năng lực hội nhập, nhất là cấp vùng và cấp địa phương, doanh nghiệp; tận dụng tối đa các cơ hội từ quá trình hội nhập mang lại, nhất là các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên. Xây dựng nền ngoại giao hiện đại, chú trọng đẩy mạnh ngoại giao quốc phòng, an ninh để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tăng cường ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển; mở rộng và nâng cao hiệu quả ngoại giao văn hóa, đóng góp thiết thực vào quảng bá hình ảnh, thương hiệu quốc gia và tăng cường sức mạnh tổng hợp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, trọng tâm là nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị là nhiệm vụ then chốt, nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Nội dung này giữ vị trí đặc biệt quan trọng với gần một nửa số bài viết trong tác phẩm của đồng chí Tổng Bí thư; phản ánh vai trò, vị trí có ý nghĩa quyết định của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đối với sự nghiệp cách mạng, cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Nội dung các vấn đề về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được bao quát một cách toàn diện, từ cơ sở lý luận chung đến những vấn đề cụ thể về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ; công tác tuyên giáo, tổ chức, kiểm tra, dân vận, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân. Ở lĩnh vực nào Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng có sự am hiểu sâu sắc, sự sẻ chia, đồng cảm, sự gợi mở, định hướng thuyết phục.

Xuất phát từ quan điểm chỉ đạo “Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta”, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh phải đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa(23). Mục đích hướng tới của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là xây dựng “Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên”(24).

Để tiếp tục nâng cao hơn nữa bản lĩnh và trí tuệ của Đảng, để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”, vấn đề quan trọng hàng đầu và có tính nguyên tắc là phải hết sức coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Cần thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng; đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhằm “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”, nâng cao đạo đức, văn hóa, tính chuyên nghiệp của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. 

Tổng Bí thư yêu cầu, cần kiên trì, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn; đồng thời, gắn phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây là cuộc đấu tranh với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không bị tác động không trong sáng bởi bất kỳ tổ chức, cá nhân nào... Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, tiêu cực; xử lý đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật hình sự đối với những người vi phạm, bất kể đó là ai”(25).

Trong cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể nhân dân giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đây cũng là vấn đề được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập ở nhiều bài viết, bài phát biểu. Từ các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, đồng chí Tổng Bí thư đã khái quát thành luận điểm rất sâu sắc, quan trọng: Phải làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả. 

Nhằm củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí, quyết tâm và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, Tổng Bí thư yêu cầu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cần “năng động, sáng tạo, đổi mới mạnh mẽ hơn nữa; thiết thực, hiệu quả cao hơn nữa, góp phần tập hợp ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân trong khối đại đoàn kết dân tộc; tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Nhân dân với Đảng và chính quyền, tạo thành sức mạnh to lớn, vô địch để xây dựng Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, Nhân dân ta ngày càng hạnh phúc; Đất nước ta ngày càng phát triển, phồn vinh”(26).

Nhân dân là chủ thể của xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong tất cả các nguồn lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: “nguồn lực con người là quan trọng nhất”(27) . Từ đó, phải đặc biệt coi trọng củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo. Đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước”(28), là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam.

***

Cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có tầm khái quát lý luận cao, là sự tổng kết mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên nền tảng tư duy lý luận sâu sắc, cuốn sách đã trình bày, phân tích, lý giải các vấn đề lý luận và thực tiễn về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam và nội dung, giải pháp để từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam một cách khúc chiết, rành mạch, rõ ràng, dung dị và dễ hiểu. Cuốn sách là tài liệu hết sức quý báu phục vụ việc nghiên cứu, học tập, giáo dục chính trị, tư tưởng và nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân ta và bạn bè yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về công cuộc đổi mới ở Việt Nam; khơi dậy và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.

PGS, TS. NGUYỄN NGỌC HÀ

Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

-----------------------

(1), (2), (3) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 23, 22, 24
(4), (5), (6), (7), (8) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 18 - 19, 20, 21, 21, 21 - 22
(9) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 24 - 25
(10) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 91
(11), (12), (13) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 92, 158 - 159, 27
(14), (15), (16), (17), (18) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 28, 165, 54, 443, 459
(19), (20), (21), (22) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 457, 61, 180, 192
(23) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 29
(24), (25) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 226, 137
(26), (27), (28) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 118, 52, 110

Theo Tạp chí Cộng sản điện tử

Tin cùng chuyên mục