Tuyên Quang thời phong kiến (từ thế kỷ X - XV): Về kinh tế, văn hóa, xã hội

- Thời kỳ này các triều đại phong kiến Lý - Trần - Hồ đã quan tâm đặc biệt đến kinh tế, điều đó được thể hiện rõ nét trong chính sách ruộng đất, bảo vệ sức sản xuất, sức kéo trong nông nghiệp và chính sách thủy lợi. Bên cạnh đó văn hóa - xã hội cũng có những bước phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.

Về Kinh tế

Tuyên Quang là miền đồi núi, đất đai trồng trọt không màu mỡ như các địa phương đồng bằng châu thổ. Kinh tế nông nghiệp của Tuyên Quang ngoài trồng lúa (lúa nước và lúa nương) còn trồng nhiều loại cây lương thực (ngô, khoai, sắn...) và các loại hoa màu khác.

Hầu như mọi hoạt động kinh tế của Tuyên Quang đều do thủ lĩnh địa phương chỉ đạo và quản lý. Tuy nhiên, bằng chính sách trọng nông thiết thực, nhà nước phong kiến Lý - Trần đã đề ra những quy định rất chặt chẽ nhằm bảo vệ nền sản xuất. Đặc biệt, dưới triều Lý, chính sách bảo vệ sức sản xuất cho nông nghiệp được Nhà nước đặc biệt quan tâm.

Tháng 8-1043, Lý Thái Tông xuống chiếu ngăn cản việc mua bán các trai đinh trong làng xã, một hiện tượng đang phổ biến lúc bấy giờ: “Kẻ nào đem bán hoàng nam trong dân làm gia nô cho người ta, đã bán rồi thì đánh 100 trượng, thích vào mặt 20 chữ, chưa bán mà đã làm việc cho người thì cũng đánh trượng như thế, thích vào mặt 10 chữ, người nào biết chuyện mà cũng mua thì xử giảm một bậc”1.

Việc bảo vệ trâu bò, sức kéo được nhà nước đặc biệt chú ý. Tháng 2-1117, vua xuống chiếu: “Kẻ nào mổ trộm trâu thì phạt 80 trượng, đồ làm khao giáp, vợ xử 80 trượng, đồ làm tang thất phụ và bồi thường trâu; láng giềng biết mà không tố cáo, phạt 80 trượng”2. Quy định này lại được nhấn mạnh vào năm 1123, “trâu là vật quan trọng cho việc cày cấy, làm lợi cho người không ít. Từ nay về sau, ba nhà làm một bảo, không được giết trâu ăn thịt, ai làm trái thì trị tội theo hình luật”3.

Con trâu là vật quan trọng cho việc cày cấy lúc bấy giờ. (Ảnh nguồn Internet)

Những chính sách trên có những tác dụng nhất định đối với sự phát triển của kinh tế nông nghiệp trong nước nói chung và Tuyên Quang nói riêng.

Thời Lý nguồn thu nhập chủ yếu của nhà nước là thuế nông sản và lâm sản. Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi về việc năm Thuận Thiên thứ 4 (1013) định thuế lệ gồm có sáu mục, trong đó có đến bốn mục là sản vật của vùng núi: 

"1. Ao hồ, ruộng đất.

2. Tiền và thóc về bãi dâu.

3. Sản vật ở núi nguồn các phên trấn.

4. Các quan ải xét hỏi về mắm muối.

5. Sừng tề, ngà voi, hương liệu của người Man Lão.

6. Các thứ gỗ và hoa quả ở đầu nguồn”4.

Thủ công nghiệp thời kỳ này cũng phát triển nhất định với hai bộ phận: thủ công nghiệp nhà nước và thủ công nghiệp dân gian. Trong khi ở những vùng trung du và đồng bằng, các nghề thủ công như: dệt, làm gốm, nghề làm giấy, khắc bản in, đúc đồng, rèn sắt... khá phát triển, ở những vùng miền núi như Tuyên Quang thì chủ yếu phát triển nghề khai khoáng. Việc khai thác tài nguyên đã bước đầu được triều đình Lý - Trần đặc biệt chú ý.

Nghề khai thác mỏ vàng ở nước ta đã được Chu Khứ Phi, một tác giả đời Tống ghi lại trong sách Lĩnh ngoại đại đáp như sau: “Vùng khe động ở Ung châu và biên giới An Nam đều có mỏ vàng... Vàng thường không sinh ra từ quặng mà tự nhiên dung kết lại trong đất cát, nhỏ như hạt gạo, lớn như hạt đậu, lớn hơn nữa thì như ngón tay, đều gọi là vàng sống... Cũng có khi lớn như trứng gà, gọi là Kim mẫu, ai bắt được thì làm giàu. Giao Chỉ có cái lợi mỏ vàng mới mua dân ta làm nô”.

Có thể thấy rằng, việc khai mỏ, đặc biệt là mỏ vàng dưới thời Lý ở các tỉnh biên giới phía Bắc, trong đó có Tuyên Quang cũng phát triển nhất định.

Thời Trần, các thư tịch cổ đều cho biết, các phủ châu Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Oai, Tuyên Hóa có các mỏ vàng, bạc, đồng, thiếc, chì, diêm tiêu.

Có thể cho rằng, phương thức khai mỏ đương thời chủ yếu là thủ công. Có hai hình thức khai mỏ chủ yếu là do nhà nước tổ chức và do tư nhân; đóng vai trò chủ đạo là dân địa phương khai thác. Sản phẩm làm ra, một phần nộp cho nhà nước dưới dạng thuế, phần còn lại thì buôn bán trên thị trường. Các sản phẩm vàng và bạc được triều đình sử dụng nhiều trong các công trình tín ngưỡng.

Thời Trần, sở hữu ruộng đất tư phát triển mạnh, nhà nước có những chính sách bảo vệ sở hữu tư nhân về ruộng đất. Kinh tế điền trang thái ấp thời Trần đang ở thời kỳ thịnh đạt song song với sự phát triển của chế độ nô tỳ.

Ở khu vực đồng bằng sản xuất nông nghiệp vẫn là nguồn sống chính, “lúa mỗi năm chín 4 lần”. Nông dân cày ruộng công, mỗi mẫu phải nộp tô 100 thăng, ngoài ra còn phải chịu thuế đinh. Ruộng tư thì từ một đến 2 mẫu phải nộp thuế 1 quan tiền, từ 3 đến 4 mẫu thì nộp thuế 2 quan tiền.

Người dân ở miền núi vẫn sống nhờ những sản vật núi rừng. Các sản vật thời Trần ghi lại trong An nam chí lược có quế, thường sơn, a ngùy, ý dĩ, hương phụ, chè... Mức thuế sản vật ở thời Trần cũng khá nặng. Sách An Nam tức sự của Trần Phu chép: “Châu đặt quan phủ, thông phán, huyện có đại liêu, thuế má nặng nề, cá, tôm, rau, quả đều phải nộp thuế do đại liêu thu”.

Thời Lý - Trần - Hồ ở một mức độ nhất định, thương nghiệp cũng phát triển đáng kể. Các vua Lý, Trần đều chú ý đúc tiền để tiện cho việc trao đổi giữa các vùng. Tiền tệ (tiền đồng) đã giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nhà nước đã thu thuế bằng tiền, thuê thợ xây dựng trả công lao động bằng tiền. Hiện nay người ta đã tìm ra 9 loại tiền thời Lý được đúc vào các thời Vua Lý như Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Nhân Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông.

Ở vùng biên giới Việt Trung, thời Lý đã xuất hiện những trung tâm buôn bán lớn gọi là những “bạc dịch trường” như Vĩnh Bình, Hoành Sơn, Khâm Châu. Đây thực chất là những chợ biên giới lớn, ở đó người dân vùng biên và những thương lái Việt Nam, Trung Quốc mang các loại hàng hóa đến để mua bán, trao đổi. Hàng hóa phần lớn là những sản vật núi rừng như sừng tê giác, ngà voi, vàng bạc, có cả những thứ thủy sản như cá, muối... để đổi lấy các loại hàng như vải vóc, lụa, đồ sứ, chè, giấy... của Trung Quốc.

Là một vùng đất xa xôi, nhưng Tuyên Quang thời trung đại cũng đã buôn bán với các vùng dân tộc thiểu số ở biên giới. Sử cũ chép lại sự kiện: Năm 1012, người Man qua cột đồng đến bến Kim Hoa, châu Vị Long (Chiêm Hóa, Tuyên Quang) buôn bán. Vua sai bắt được người Man và hơn một vạn con ngựa. Tuy nhiên, việc buôn bán như vậy rất hiếm có ở vùng đất Tuyên Quang thời trung đại.

Về Văn hóa - xã hội

Thời Lý - Trần - Hồ là thời kỳ văn hóa Đại Việt có những bước phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.

Do tư liệu quá ít ỏi, rất khó dựng lại được diện mạo đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc Tuyên Quang cách ngày nay gần 10 thế kỷ. Tuy nhiên, trong dòng chảy văn hóa dân tộc, người dân Tuyên Quang vẫn bảo lưu và thể hiện những nét văn hóa đặc trưng, đặc sắc nhất.

Về nghề nghiệp thì làm ruộng, buôn bán, chài lưới, đẵn cây, tự túc sinh nhai, không có chuyên nghiệp. Các lễ tiết, tế tự cùng ma chay, hôn nhân gần giống như trung châu nhưng chất phác, ít bày vẽ.

Họ dùng sức nước để giã gạo, làm cái cọn để lấy nước vào ruộng; đốt nương thì dùng dao moi đất để tra hạt giống...

Phong tục của cư dân nhìn chung còn thuần phác, đơn giản. Quần áo thường nhuộm thâm hay may bằng vải hoa, ít dùng màu sặc sỡ; giày, dép cũng ít được dùng. Họ chủ yếu ở trong các ngôi nhà sàn, vừa để tránh thú dữ, vừa để tránh lũ lụt.

Trong các di sản còn lại có bài văn bia chữ Hán được khắc trên một tấm bia đá với nhan đề là Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi (Văn bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc) được xây dựng trên đồi Khuôn Khoai, thuộc thôn Vĩnh Khoái, xã Yên Nguyên, phía Tây Nam huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang.

Tấm bia tập trung viết về Hà Hưng Tông, ngay dòng mở đầu đã chép: “Quan coi châu Vị Long, tước Phò kỳ lang (tức là Phò mã, con rể Vua), Đô tri tả vũ vệ Đại tướng quân, Kim tử quang lộc Đại phu, Kiểm hiệu Thái phó; Đồng trung thư môn hạ Bình chương sự, kiêm Quản nội khuyến nông sự, Thượng trụ quốc, ăn lộc phong ấp ba nghìn chín trăm hộ, ăn lộc thực phong chín trăm hộ”. Tấm bia cổ được khắc dựng sau khi hoàn thành ngôi chùa, đã khẳng định công lao giữ vững an ninh và xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa trong gần 200 năm dưới triều Lý của 15 đời họ Hà trên vùng đất cổ Chiêm Hóa, Tuyên Quang.

Chùa Phúc Lâm (còn gọi là Phúc Lâm Tự) nằm ở thôn Nà Tông, xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình.

Tại Tuyên Quang cũng có một số ngôi chùa mang dáng dấp kiến trúc Phật giáo thời Lý - Trần, tiêu biểu là chùa Phật Lâm, còn gọi là chùa Núi Man tại thôn Trại Xoan, xã Nhữ Hán, huyện Yên Sơn va Chùa Phúc Lâm ở thôn Nà Tông, xã Thượng Lâm, huyện Nà Hang (Xem chương I: Di tich - Danh thắng, phần Văn hoá).

Giáo dục - thi cử

Là vùng đất xa kinh thành, trong suốt bốn thế kỷ (X - XIV), Tuyên Quang không có người tham gia vào các kỳ thi tuyển chọn nhân tài của đất nước. Tuy thế, cũng có những danh nhân có những đóng góp lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước thời Lý - Trần - Hồ. Đó là:

Hà Di Khánh: là danh thần thời vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127). Ông tổ họ Hà là Hà Đắc Trọng vốn là Châu chủ châu Vị Long (nay là vùng Chiêm Hóa, Nà Hang, Lâm Bình), đến Hà Di Khánh là đời thứ sáu. Hà Di Khánh sinh năm Kỷ Dậu (năm 1069). Năm lên 9 tuổi, ông được vua Lý Nhân Tông cho vời về Kinh gả em gái (Công chúa Khâm Thánh) cho. Năm sau, ông về Kinh đón cô dâu và được phong làm Tả đại liêu ban. Nhưng vì tuổi còn nhỏ, ông trở lại quê hương cùng cha coi sóc đất Vị Long. Năm 1082, ông được rước cô dâu về bản địa.

Trong cuộc kháng chiến chống Tống của Lý Thường Kiệt (năm 1076), cha của ông đem quân truy kích giặc lập công lớn. Năm ông 17 tuổi, cha mẹ ông đều mất. Ông được nối chức cha coi giữ châu Vị Long khi mới 18 tuổi. Năm 1086, vua giao cho ông giữ chức Tiết độ sứ Kim tử Quang lộc Đại phu, hiệu Thái phó, vẫn giữ chức cũ là Tả đại liêu ban. Sau đó, ông còn được thăng làm Phó ký lang Đô tri Tả vũ vệ Đại tướng quân, Đông trùng Thủ môn hạ Bình chương sự, kiêm Quân nội khuyến nông sự Thái bảo, Thái phó Thượng trụ quốc, hưởng thực ấp 3.900 hộ, thực lộc 900 hộ.

Năm Đinh Hợi (năm 1107), ông cho xây chùa Bảo Ninh Sùng Phúc rất tráng lệ ở chân núi Đán Hán (thuộc xã Yên Nguyên, Chiêm Hóa ngày nay) để giáo hóa chúng dân theo đức thiện. Khi chùa xây xong, ông có mời Triều thỉnh Đại phu, đồng Thượng cáp môn sứ, Thượng thư Viên ngoại lang, tứ tử kim ngư đại Lý Thừa Ân soạn văn bia nói rõ về công trạng của dòng họ Hà ở đất Vị Long.

Trần Quang Bưu người Tuyên Quang, tổ tiên làm quan trải qua các triều Lý, sang triều Trần vẫn được trọng dụng. Con cháu đều được phong hầu. Đến đời vua Trần Thuận Tông (1389 - 1398), ông làm quan đến chức Hành khiển (tương đương chức Tể tướng sau này). Cuối đời vua Trần Thiếu Đế (1398 - 1400), Hồ Quý Ly làm phản, Trần Quang Bưu lập mưu giết Quý Ly nhưng không thành, nên bị hại chết.

Theo Địa chí Tuyên Quang

---------------

1,2,3,4. Đại Việt Sử ký toàn thư Sđd, t.I, tr.264, 287, 292, 243.

Tin cùng chuyên mục