Tuyên Quang trong chính sách “ngụ binh ư nông” thời Lý - Trần - Lê

- Một trong những kinh nghiệm lớn của tổ tiên ta các thời Lý, Trần, Lê về việc tạo nên sức mạnh vô địch trong công cuộc giữ nước là chính sách “ngụ binh ư nông”, một phương thức xây dựng lực lượng vũ trang phòng giữ đất nước, kết hợp chặt chẽ “binh” với “nông”, kinh tế với quốc phòng, dựng nước với giữ nước. Bài học kinh nghiệm quý báu đó đã và đang được kế thừa trong thực tiễn đấu tranh dựng nước với giữ nước của nhân dân ta ngày nay.

“Ngụ binh ư nông là chính sách thời phong kiến ở nước ta (thời Lý, Trần, Lê) cho một số binh lính luân phiên nhau về làm ruộng ở làng xã lúc bình thường, nếu có chiến tranh sẽ huy động tất cả đi chiến đấu” (Thuật ngữ và khái niệm lịch sử, tr 109, NXB ĐHQG, Hà Nội, 1996). Chính sách “ngụ binh ư nông” với nội dung kết hợp chặt chẽ “binh” với “nông” như trên là một chính sách rất hay của tổ tiên ta các thời Lý, Trần, Lê. “Đời Lý, ngoại binh thì không cứ luân đến canh, hết phiên canh cho về nhà cày cấy, trồng trọt để tự cấp. Nhà Trần theo phép nhà Lý, binh các đạo đều chia nhau về làm ruộng cho đỡ tốn lương. Phép nuôi binh đời Lê đại để theo phép “ngụ binh ư nông” của thời Lý, Trần, không phải cấp lương bổng. Thời Hồng Đức trở về sau cứ theo phép ấy không đổi. Đó cũng là phép hay của đời vạn cổ” (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập 4, tr 3, 5, 6, 8, 20, NXB Sử học, Hà Nội, 1961).

Quân đội nhà nước có quân triều đình thường gọi là quân trong kinh hoặc cấm quân và các quân địa phương, quân các lộ (hoặc còn gọi là ngoại binh), quân các đạo, quân các châu. Ngoài ra, còn có các lực lượng dân binh (hương binh ở vùng đồng bằng và thổ binh ở vùng núi). Đây là lực lượng dân chúng vũ trang đông đảo được động viên chủ yếu trong thời chiến, để chiến đấu ngay tại địa phương, nhưng cũng có khi tác chiến cơ động theo sự điều động của triều đình. Thổ binh thời chiến được huy động nhiều, còn thời bình số lượng rất ít vì đó là quân bản bộ canh phòng của các tù trưởng. Trong các thời Lý, Trần, Lê đều duy trì như vậy. Và Tuyên Quang cũng duy trì lực lượng quân sự bao gồm ngoại binh và thổ binh.

Thời nhà Lý, Tuyên Quang được biết đến là châu Vị Long với dòng họ Hà có tới 15 đời làm châu mục. Trước nguy cơ xâm lăng của nhà Tống, Lý Thường Kiệt với phương châm “tiên phát chế nhân”, thống lĩnh 10 vạn quân chia làm hai đạo thủy bộ đánh chiếm Ung châu, Khâm châu trên đất Tống. 

Dưới thời Lý, Trần, Lê, chính sách "ngự binh ư nông" tạo nên sức mạnh để giữ nước. 
Trong ảnh: Cánh đồng thôn Cao Đường, xã Yên Thuận (Hàm Yên). 

Thân phụ Hà Hưng Tông cùng binh mã châu Vị Long (ngoại binh và thổ binh) giữ vai trò quan trọng, góp công vào chiến thắng này. Văn bia Chùa Bảo Ninh Sùng Phúc (hiện ở tại Chùa Bảo Ninh Sùng Phúc, xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa) đã ghi rõ: “Ngày qua tháng lại, năm Ất Mão, niên hiệu Thái Ninh 1074, thân phụ Thái phó (cha của Hà Hưng Tông) chỉnh đốn vương sư, đánh sang ải bắc, vây thành Ung cho bõ giận; bắt tướng võ dâng tù binh. Do đó, thân phụ Thái phó được nhà vua ban chức Hữu đại liêu ban đoàn luyện sứ” (Thơ văn Lý - Trần, tập 1, tr 329, NXBKHXH, Hà Nội, 1977).

Thời nhà Trần nổi tiếng với ba lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Năm 1285, trong cuộc kháng chiến lần thứ hai, trong khi đại quân theo vua và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn rút khỏi kinh đô Thăng Long thì Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật cùng lực lượng ngoại binh và thổ binh ở Tuyên Quang đã chiến đấu với cánh quân Nguyên từ Vân Nam xuống (để phối hợp với cánh quân của Thoát Hoan), trước đó Nhật Duật được lệnh trấn thủ Tuyên Quang “Cuối niên hiệu Thiệu Bảo, ông (Trần Nhật Duật) giữ trại Thu Vật ở Tuyên Quang” (Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, tr 150, NXBKHXH, 2009). Sau khi giao chiến với giặc, Trần Nhật Duật đã rút lui để bảo toàn lực lượng và hội với đại quân của nhà Trần.

Thế kỷ XVI đầy biến động với sự kiện Mạc Đăng Dung thoán ngôi nhà Lê, lập nên nhà Mạc tồn tại hơn 60 năm (từ 1527-1592). Dưới thời vua Lê Chiêu Tông (1516 - 1522), Vũ Văn Mật được trao cho giữ chức Tổng binh ở Tuyên Quang. Hồi đầu niên hiệu Nguyên Hòa, Vũ Văn Mật giữ trọn được cảnh thổ, ra sức chống cự với nhà Mạc, tự đóng quân ở Đại Đồng, chia làm 11 doanh: huyện Phú Yên có doanh Phú Yên, châu Thu Vật có doanh Yên Thắng, châu Lục Yên có doanh Yên Bắc, châu Vị Xuyên có các doanh Bình Di, Bình Man, Trấn Uy, Yên Biên và Nam Dương, châu Đại Man có doanh Nghi, châu Bảo Lạc có doanh Bắc Kiệm và Trung Mang (Lê Quý Đôn toàn tập, tập 2, Kiến văn tiểu lục, tr 354, NXBKHXH, Hà Nội, 1977). Như vậy, anh em con cháu họ Vũ 5 đời chiếm giữ vùng đất Tuyên Quang dốc sức xây dựng lực lượng ngoại binh và thổ binh tương đối mạnh để chống lại nhà Mạc. Nhà Mạc đã bốn lần đánh họ Vũ ở Tuyên Quang vào các năm 1537, 1538, 1578 và 1560 nhưng đều bị họ Vũ đánh bại, vì vậy, nhà Mạc không chiếm được Tuyên Quang.

Năm 1789, các thủ lĩnh họ Ma tập hợp thổ binh ở châu Đại Man (Chiêm Hóa) chặn đánh một cánh quân của nhà Thanh trên đường rút chạy qua Đại Man, Bảo Lạc về nước, tiêu diệt nhiều tên địch.

Việc xây dựng lực lượng vũ trang phòng giữ đất nước nằm trong nhân dân gắn liền với sản xuất trong chính sách “ngụ binh ư nông” dưới thời Lý, Trần, Lê là bài học kinh nghiệm quý báu của việc tiến hành chiến tranh giữ nước mang tính chất nhân dân rộng rãi, kết hợp quân sự với kinh tế trong sự nghiệp đấu tranh và giữ nước của dân tộc ta trước đây, là vấn đề có tính quy luật của việc xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.

 Đặng Trần Quân
(Nguyên GV Lịch sử, Trường ĐHTT)

Tin cùng chuyên mục